CHƯƠNG SÁU
Chư vị đồng tu, xin chào mọi người!
Lần trước chúng ta đã giảng đến Liễu Phàm Tiên Sinh được Khổng Tiên Tinh đoán mệnh cho ông 53 tuổi sẽ có tai nạn. Nhưng đến năm đó ông vẫn bình an trôi qua. Ông tổng kết cho con trai rằng: “phàm nói họa phước là tự mình cầu thì đó là giáo huấn của Thánh Hiền. Nếu nói họa phước là sự chủ định trong mạng, đó là lí luận của người thế tục, không thể tin tưởng được”. Tiếp theo ông dạy con ông:
Nhữ chi mệnh vị tri nhược hà.
Mạng của con không biết rốt cuộc sẽ ra sao.
Tức mệnh đương vinh hiển, thường tác lạc mịch tưởng.
Mạng mình gặp lúc vinh hiển, thường phải nghĩ tới lúc còn hàn vi.
Cho dù trong mạng con có phú quý vinh hoa nhưng bản thân không được đắc ý.
Tức thời đương thuận lợi, thường tác phất nghịch ý.
Gặp thuận lợi phải thường nghĩ tới lúc nghịch cảnh khó khăn.
Cho dù sự việc tuy rất thuận lợi nhưng thường nghĩ làm chưa vừa lòng.
Tức nhãn tiền túc thực, thường tác bần cũ tưởng, tức tương nhân ái kính, thường tác khủng cụ tưởng, tức gia thế vọng trọng, thường tác ti hạ tưởng, tức học vấn pha ưu, thường tác thiển lậu tưởng.
Cho dù trước mắt sung túc, phải thường nghĩ tới lúc nghèo nàn. Khi được người kính nể, phải thường có ý e dè sợ sệt. Khi gia thế được người trọng vọng, phải thường nghĩ tới lúc mình còn thấp kém; khi học vấn cao thâm, phải nghĩ thường tới lúc mình còn nông cạn, thô thiển.
Đây là Liễu Phàm Tiên Sinh dạy con ông học cách khiêm tốn. “Kinh Dịch” có nói, lục hào giai cát chỉ nhất khiêm trong sáu hào chỉ có quẻ khiêm là tốt nhất. Trong Kinh Thư nói được rất hay “mãn chiêu tổn, khiêm thọ ích” ngã mạn thì chiêu tổn, khiêm cung thì thọ ích. Một người bất luận là ở trong hoàn cảnh như thế nào, hoàn cảnh tốt cũng tốt, hoàn cảnh không tốt cũng tốt, đều phải khiêm tốn, ngàn vạn lần không được kiêu ngạo. Đoạn văn này ý nghĩa của nó vô cùng sâu sắc. Phía sau ông nói:
Viễn tư dương tổ tông chi đức, cận tư cái phụ mẫu chi khiên, thượng tư báo quốc chi ân, hạ tư tạo gia chi phúc, ngoại tư tế nhân chi cấp, nội tư nhàn kỉ chi tà.
Nhìn xa phải nghĩ đến xiển dương đức hạnh Tổ Tiên. Nhìn gần phải nghĩ đến che giấu lỗi lầm cha mẹ. Nhìn trên phải nghĩ đến đền ơn tổ quốc. Nhìn dưới phải nghĩ đến tạo hạnh phúc cho gia đình. Đối ngoại phải nghĩ đến giúp người lúc cần. Đối nội phải nghĩ đến ngăn chặn ý nghĩ tà xấu của chính mình.
Sáu điều “tư” này chính là “ tư tưởng”, bạn phải thường nghĩ như vậy, sáu điều này xác thực chính là trong Phật Pháp chỗ nói “chánh tư duy”. Người không thể không có suy nghĩ chính xác, tư tưởng chính xác, sáu điều này là tiêu chuẩn.
Điều đầu tiên, phải thường nghĩ đến phát dương quang đại đức hạnh của Tổ Tông, đây là điều căn bản. Tổ Tông của chúng ta là ai? Tổ Tông dân tộc chúng ta, được ghi chép trong lịch sử, từ vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thương, Văn, Vũ, Chu công, đây là Tổ Tiên của dân tộc Trung Quốc chúng ta. Tổ Tiên của mỗi gia đình chúng ta, đều là kế thừa đạo thống của Cổ Thánh Tiên Hiền mà có, câu này có nghĩa, dùng lời hiện tại mà nói, chúng ta phải thường nghĩ đến phát dương quang đại văn hóa Trung Hoa. Nền văn hóa của chúng ta có lịch sử vô cùng dài lâu, nền văn hóa này coi trọng sự đối xử hòa hài giữa người với người, giữa người với tự nhiên, giữa người với Thiên địa quỷ Thần, tất cả đều phải tôn trọng lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau. Phải thường suy nghĩ làm thế nào để đức hạnh của Tổ Tiên thực sự đi vào trong đời sống xã hội hiện đại, thực sự đem lại lợi ích cho xã hội đại chúng hiện tiền.
Cận tư cái phụ mẫu chi khiên.
Đây chính là nói đến cách cư xử với những người ở bên cạnh mình. Cổ Thánh Tiên Hiền Trung Quốc thường dạy chúng ta rằng: “điều xấu trong nhà không được nói ra bên ngoài”. Tại sao vậy. Trong gia đình có những việc không hay cũng là điều khó tránh, nếu như thường nói cho người ngoài nghe, người ngoài đối với gia đình bạn tự nhiên có tâm coi thường, thậm chí là dẫn những âm mưu xấu, muốn phá hoại sự hòa hài trong gia đình bạn, nên ngạn ngữ có nói “họa từ khẩu xuất hoạ từ miệng ra”. Gia đình như vậy, xã hội cũng thế. Ngày nay xã hội tại sao lại động loạn? Nguyên nhân này rốt cuộc do đâu.
Chúng ta hãy cẩn thận mà suy xét, chúng ta là đi ngược lại giáo huấn của Cổ Thánh Tiên Hiền. Người xưa nói không nghe lời cha ông, thiệt thòi ngay trước mắt. Trước mắt chúng ta phải chịu thiệt thòi lớn rồi. “Lời Lão Nhân” là cái gì. Người xưa dạy chúng ta đối với xã hội, đối với đại chúng phải làm được tương ưng với câu “ẩn ác dương thiện”. Nhìn thấy chỗ không thiện của người khác thì không nên nói ra, cũng tuyệt đối không tuyên dương, càng không đem chúng để vào tâm. Nhìn thấy chỗ thiện của người khác, chúng ta phải tán dương. Phương pháp này sẽ khiến cho người bất thiện tự cảm thấy hổ thẹn mình làm điều ác mà người khác đều có thể bao dung, đều có thể tha thứ cho mình. Còn người thiện thì nghĩ mình làm một chút việc thiện như vậy mà mọi người biểu dương mình, tán thán mình. Điều đó có thể khởi phát tâm hổ thẹn của đại chúng, khởi phát tâm sám hối của đại chúng, như vậy xã hội mới có thể an định, Thế Giới mới có thể hòa bình.
Hiện tại, chúng ta xem thấy ở trong nước, ngoài nước tương phản lại với nguyên tắc đó. Xã hội hiện tại đều là ẩn thiện dương ác, việc ác thì đặc biệt tăng cường báo cáo, còn việc thiện thì hoàn toàn không nói đến. Cách làm này khiến cho người hành thiện bị thoái tâm, ngược lại đối với kẻ tạo ác lại cổ vũ lớn lao. Khiến xã hội động loạn, thế cục bất an, kỷ lai hữu tự. Đây là nói đến gia đình, cha mẹ, anh em có lỗi sai đều phải che dấu. Thật ra, việc che dấu đó cũng là không đúng mà chúng ta cần phải nhắc nhở, khuyên bảo cha mẹ, anh em cải ác hướng thiện. Việc khuyến đạo này diễn ra khi chỉ có người trong gia đình, quyết không phải trong trường hợp có người ngoài. Chỉ cần có người ngòai, chúng ta quyết định phải là ẩn ác dương thiện. Phải ghi nhớ lời dạy này của người xưa, làm như vậy mới đúng.
Thượng tư báo quốc chi ân.
Phải thường nghĩ đến báo ân. Phật dạy đệ tử “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ”, đệ tử Phật thường niệm kệ hồi hướng này, tuy nhiên chỉ là miệng niệm, không chân thật làm được. Cho nên tôi thường nói, nếu không làm được lời giáo huấn của Phật, chúng ta lấy cái gì để hồi hướng chứ. Chỉ là hồi hướng trên miệng, mà không có đức hạnh chân thật để hồi hướng, đây là dối mình dối người, như vậy thì là sai rồi. Tứ trọng ân, thứ nhất là ân cha mẹ, thứ hai là ân Lão Sư, thứ ba là ân quốc gia, thứ tư là ân chúng sanh. Chúng ta sinh ra ở thế gian này, y phục ẩm thực đều dựa vào đại chúng, mỗi người đều không thể độc lập thoát li khỏi quần chúng. Giữa người và người đều tồn tại ân đức, cho nên chúng ta phải thường suy nghĩ làm sao để báo ân. Phải dùng trí huệ của bản thân để cống hiến, dùng đức năng của bản thân để phụng sự, vì quốc gia, vì xã hội phục vụ, đây mới là hành vi báo ân cụ thể.
Hạ tư tạo gia chi phúc.
Dưới phải tạo phúc cho gia đình, đây chính là điều mà nhà Nho thường dạy “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. “Tạo gia chi phúc”, đây là nói tề gia, gia đình cần phải có trật tự. Tiêu chuẩn của trật tự là như thế nào. Tiêu chuẩn chính là luân lí, luân lí là trật tự xã hội. Chúng ta biết, một xã hội có trật tự thì xã hội đó an định. Quốc gia có trật tự thì quốc gia đó giàu mạnh. Gia đình có trật tự thì gia đình đó hưng vượng. Cha từ con hiếu, anh thương em kính, chồng nói vợ nghe, đây là trật tự tự nhiên của việc tề gia, hoàn toàn không phải là do Khổng Lão Phu Tử chế định ra, không phải Cổ Thánh Tiên Hiền chế định, nghĩ như vậy thì sai rồi. Nếu như do người chế định, tôi làm sao tán đồng họ, hầu hết mọi người sẽ nghĩ mình “bị người khác xỏ mũi”. Không phải, Khổng Lão Phu Tử tuyệt đối không bao giờ xỏ mũi người khác, Thích Ca Mâu Ni Phật cũng không làm khó người. Những điều họ nói đều là đạo lí tự nhiên. Dùng thuật ngữ nhà Phật mà nói chính là từ trong tự tánh, từ trong chân tâm của bạn, từ trong bổn tính của bạn, là đức năng vốn có, là trật tự vốn có, là thiên nhiên, là tự nhiên, quyết không phải do con người làm ra. Chúng ta phải hiểu rõ cái đạo lí này, sau đó mới có thể chân chánh chịu làm theo giáo huấn của Cổ Thánh Tiên Hiền.
Họ tại sao được xưng là Cổ Thánh Tiên Hiền, nguyên nhân là tại chỗ nào. Họ không phải là dạy chúng ta vĩnh viễn phải tin theo họ. Không phải. Chúng ta nghe giáo huấn của họ là ở giai đoạn sơ học, đến khi đạt đến một trình độ nhất định, cảnh giới của bạn được nâng cao. “Cho nên Phật nói, nhất thiết chúng sanh giai đương tác Phật, tất cả chúng sanh đều làm Phật”, mọi người là bình đẳng.
Trong Kinh Viên Giác, Kinh Hoa Nghiêm giảng được rất thấu triệt, Kinh nói “nhất thiết chúng sanh bổn lai thành Phật”, so với “ưng đương thành Phật” thì càng thân cận hơn. Cho nên Phật Pháp là bình đẳng, cái mà Nho gia nói cũng chính là bình đẳng, cái Đạo gia nói cũng vẫn chính là bình đẳng. Giáo huấn của Đại Thánh Đại Hiền, cổ kim trung ngoại, không một thứ gì không phải là thanh tịnh bình đẳng, cái đạo lí này chúng ta cần phải tỉ mỉ thể hội, phải thâm nhập, mới có thể đạt được thọ dụng chân thật.
Hai câu phía sau “ngoại tư tế nhân chi cấp”, đối ngoại thì phải thường nghĩ đến những chúng sanh khổ nạn quá nhiều, đặc biệt là trong cái thời đại hiện nay, thường thường nghĩ đến những người khổ nạn, chúng ta làm sao giúp đỡ họ. Bản thân trên phương diện sinh hoạt phải biết tiết kiệm, “nếu ta có thể giảm một đồng, ta có thể giúp đỡ thêm cho người khác một đồng.Trong sinh hoạt hằng ngày, nếu ta có thể giảm đi hai đồng, thì ta có thể giúp người khác hai đồng”. Chúng ta phải có cái tâm như vậy, có cái nguyện như vậy. Gặp người khổ nạn, phải nhanh chóng, phải toàn tâm toàn lực mà đi tiếp trợ họ.
Nội tư nhàn kỉ chi tà.
Đối với bản thân, đối nội, “nhàn” là ngăn ngừa, chính là nhất định hiểu được ngăn ngừa tà tri tà kiến. Đặc biệt là trong thời đại này, thời đại mà mọi người đều ủng hộ mở cửa tự do dân chủ, đây là xu hướng của Thế Giới, có thể hiểu được. Quá khứ, đại khái là mười năm trước, tôi đến Tân Gia Ba giảng Kinh, thời gian đó tôi ở Tân Gia Ba không lâu, mỗi năm chỉ đến đó một lần, ở đó giảng một tháng. Pháp Sư Diễn Bồi, ông là một người bạn cũ của tôi, có một ngày ông mời tôi ăn cơm, ông hỏi tôi, ông nói “Tịnh Không Pháp Sư, ông tán thành chế độ quân chủ độc tài hay là tán thành dân chủ.” Tôi nói “Tôi tán thành quân chủ”. Ông nói “Ngài lạc hậu rồi”, tôi nói “tôi không lạc hậu”. Ông hỏi tôi tại sao? Tôi nói thời đại quân chủ, Hoàng đế, Ngài nói ông ta có tâm riêng tư cũng được, chúng ta không bàn cãi về điều này, ông ta có tâm riêng tư cũng tốt, bởi vì ông ta hi vọng con cháu của mình đều làm Hoàng đế, đời đời truyền ngôi lại cho nhau. Vì vậy, Hoàng đế đối với việc giáo dục người kế thừa vô cùng nghiêm khắc. Đây là một việc tốt. Nếu như người kế thừa ngôi báu làm những việc sai trái, thì nhân dân khởi nghĩa phản kháng, chính quyền của ông ta bị lật đổ. Cho nên chúng tôi từ trên lịch sử Trung Quốc xem thấy, Hoàng đế khai quốc bồi dưỡng người kế thừa là dùng tâm huyết lớn nhất, họ đi mời nhân tài ưu tú nhất của quốc gia, những người có học vấn, có đức hạnh để dạy dỗ Thái tử, hi vọng tương lai Thái tử trở thành một Thánh Vương, một Hiền Vương. Ông có trách nhiệm, ông muốn ngôi vị được trường cữu. Còn chế độ chính trị dân chủ không chịu trách nhiệm cho đời sau, người tại vị là do được bầu chọn lên. Trong vòng ba bốn năm thì miễn nhiệm, nên bản thân ông ta không ảnh hưởng gì, ông ta cũng không nghĩ mình sẽ tại vị lâu dài.
Cho nên Hoàng đế thời xưa thường nghĩ đến lỗi lầm của mình, làm sao để sửa đổi làm mới, nếu như họ nghe được những kiến nghị của Quan đại thần sẽ rất vui mừng. Khi đọc được những quyển sách như vậy, tôi vô cùng tôn kính họ. Cho nên tôi một đời tán thành quân chủ chuyên chế, không tán thành dân chủ.
Cách mạng Trung Quốc, tôi vô cùng bôi phục Tiên Sinh Tôn Trung Sơn, tư tưởng của ông xác thực là sự tập hợp tinh hoa của phương Đông và phương Tây. Tuy rằng, ông lật đổ chế độ chuyên chế, nhưng ông chủ trương chuyên chính nhất Đảng, đây chính là sự kết hợp tinh hoa của văn hóa phương Đông và phương Tây. Ông biết được ưu điểm của chế độ quân chủ, cũng biết được khuyết điểm của nó; ông biết được ưu điểm của dân chủ phương tây, cũng biết được khuyết điểm của dân chủ, cho nên ông mới nghĩ ra một Đảng chuyên chính, đây là kiến giải vô cùng cao minh.
Bởi vì thời quá khứ, hoàng đế luôn là người trong nhà, chính quyền là thuộc về một gia tộc, đây là khuyết điểm của chế độ quân chủ. Còn đối với chuyên chính nhất đảng, cái đảng này không phải là của một gia tộc, mà là sự tập hợp tinh hoa của toàn quốc. Những người có đạo đức, có học vấn sẽ tập hợp lại thành một chính đảng để quản lí đất nước. Trong đảng có cả dân chủ lẫn chuyên chế chịu trách nhiệm. Trong việc chịu trách nhiệm này, điều quan trọng nhất chính là phải đề xướng chánh tri chánh kiến, ngăn chặn tà tri tà kiến. Nhất định là phải đề xướng giáo dục luân lí đạo đức, mới có thể ngăn ngừa tà tri tà kiến. Nếu như không có chánh tri chánh kiến, quyết định không thể ngăn chặn được tà tri tà kiến. Ngày nay rất nhiều nơi trên Thế Giới, tà tri tà kiến đã xâm nhập vào xã hội. Điều này thì không được rồi. Đây là căn nguyên của xã hội động loạn, là nguồn gốc của tai họa. Trong ba năm gần đây, tôi ở tại Tân Gia Ba. Tôi đối với chính phủ Tân Gia Ba rất bội phục, họ là một chính phủ chịu trách nhiệm đối với nhân dân. Lúc mới đến Tân Gia Ba giảng Kinh, tôi chịu sự giám sát của họ rất nghiêm khắc. Kinh Điển chúng tôi giảng phải báo cáo với họ, nội dung giảng cũng phải báo cáo; Kinh Điển phải được họ kiểm tra, họ đồng ý, chúng tôi mới có thể giảng. Nghe nói trong khi chúng tôi giảng Kinh, mỗi một giảng đường đều có người mặc quân phục ở tại đó giám thính. Nếu như cái bạn nói là tà tri tà kiến, phá hoại đoàn kết xã hội, phá hoại đoàn kết chủng tộc, tạo ra tin đồn thì ngay lập tức bị cấm chỉ. Đây là một việc tốt.
Hiện tại khi nói đến một xã hội dân chủ, người ta nói rằng “cái xã hội này ngôn luận không tự do, xuất bản không tự do”. Chư vị phải hiểu rằng, nếu ngôn luận tự do, xuất bản tự do, quyết định tạo thành xã hội động loạn, đó chính là tà tri tà kiến không có người ngăn ngừa. Dân tộc Trung Quốc có thể kéo dài đến ngày nay, vẫn không bị diệt vong, tôi cảm giác được đó là nhờ lịch đại đế vương đã bảo hộ chánh tri chánh kiến của nhân dân, công đức này vô cùng lớn. Ngăn ngừa tà tri tà kiến trong xã hội không cho lan tràn, điều này hiện tại người nhìn ra được càng ngày càng ít.
Do đó tôi đã phân tích cho Pháp Sư Diễn Bồi nghe, Pháp Sư
Diễn Bồi nghe đến cuối cũng, ông không thể không gật đầu. Ở đây đề xuất ra cương lĩnh của sáu điều tư duy, đây là tư duy chánh tri chánh kiến. Phía sau, Tiên Sinh Viên Liễu Phàm nói tiếp:
Vụ yếu nhật nhật tri phi, nhật nhật cải quá. Nhất nhật tri vô phi, tức nhất nhật an ư tự thị, nhất nhật vô quá khả cải, tức nhất nhật vô bộ khả tiến.
Ngày ngày cần phải xét lỗi, ngày ngày cải sửa. Một ngày không nhìn ra sai trái của mình, thì ngày đó an nhiên tự thị, tự nghĩ rằng mình đúng. Một ngày không có lỗi để sửa thì ngày đó không có tiến bộ nào cả.
Câu nói này đối với chúng ta mà nói, quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác. Trong nhà Phật thường nói “khai ngộ”. Có người hỏi tôi cái gì gọi là khai ngộ. Tôi trả lời anh ta khi bạn biết được quá khứ của mình thì bạn đã khai ngộ rồi. Bạn có thể đem những lỗi lầm trong quá khứ cải chính sửa đổi, cái này gọi là tu hành. “Vụ yếu” là tất yếu phải, không như thế thì không được. Ngày ngày chúng ta phải kiểm điểm, phải phản tỉnh, tìm ra những lỗi lầm của mình. Công khóa sớm tối là quan trọng nhất đối với đồng tu sơ học, công khóa sớm tối không phải là niệm cho Phật Bồ Tát nghe, không coi trọng ở hình thức. Khóa sáng là dụng ý đề tỉnh bản thân, hi vọng bản thân ngày hôm nay xử sự đối người tiếp vật không quên đi lời giáo huấn của Phật Bồ Tát, dụng ý của khóa sáng là ở chỗ này. Khóa tối là phản tỉnh, phản tỉnh bản thân ngày hôm nay đối người, đối sự, đối vật, có chỗ nào làm đúng, làm được chính xác. Có chỗ nào làm sai. Khóa tối là phản tỉnh. Làm đúng rồi, thì ngày mai tiếp tục bảo trì. Nếu như làm sai thì ngày mai nhất định phải sửa đổi, công khóa sáng tối như vậy mới có công đức. Quyết không phải gõ mõ tụng Kinh, niệm cho Phật Bồ Tát nghe, sáng sớm niệm một biến, tối đến niệm một biến, cùng với tư tưởng, ngôn hành của bản thân tơ hào không can hệ, công khóa sớm tối như vậy, không những không có công đức, mà còn tạo tội nghiệp, tạo tội nghiệp gì vậy. Phật Bồ Tát không ở trước mặt bạn, bạn là đối trước một pho tượng hoặc là một bức vẽ. Đối trước pho tượng, tranh vẽ bạn nhẫn tâm buổi sáng lừa dối một lần, buổi tối lại lừa dối lần nữa, cái tâm này của bạn quá tàn nhẫn rồi, đây không phải là tội lỗi lớn sao. Ngày nay người học Phật nhiều, nhưng người chân chính hiểu được đạo lí Phật Pháp thì không nhiều. Tôi đặc biệt hi vọng các bạn đồng tu phải hiểu rõ tinh thần, ý nghĩa của công khóa sớm tối, cũng chính là ở đây nói “ngày ngày tìm lỗi, ngày ngày sửa lỗi”. Một ngày không nhận biết được lỗi lầm của mình, bạn chính là đang “an ư tự thị”, tự cho rằng mình đúng, đây là lỗi lầm lớn. Một ngày nếu bạn không thấy lỗi để sửa, bạn không cách nào có tiến bộ. Không tiến bộ, câu này đồng nghĩa với bạn quyết định sẽ thoái chuyển.
Thiên hạ thông minh tuấn tú bất thiểu.
Trong thiên hạ không thiếu gì người thông minh tài trí.
Mấy câu sau là Liễu phàm Tiên Sinh cảm thán. Có người tài năng thông minh tuấn tú hay không. Khẳng định là có.
Sở dĩ đức bất gia tu, nghiệp bất gia quảng giả, chỉ vi nhân tuần nhị tự, đam các nhất sanh.
Đây chính là muốn cảnh tỉnh chúng ta. Tại sao những người này ngày ngày không trau dồi đạo đức. Đức nghiệp tại sao không ngày ngày mở rộng. Đều vì hai chữ “nhân tuần” làm hại. Nhân tuần là ý nghĩa gì. Chính là hiện tại nói làm qua loa, làm cho có lệ, không hết lòng nỗ lực. Trên công việc và đạo đức, đều không nỗ lực mà làm. Cuối cùng:
Vân Cốc Thiền Sư sở thọ lập mạng chi thuyết, nãi chí tinh, chí thúy, chí chân, chí chính, chi lí, kỳ thục ngoạn nhi miễn hành chi, vô tự khoáng dã.
Thuyết lập mạng của Thiền Sư Vân Cốc là một lý lẽ tinh túy nhất, thâm thuý nhất, chân thực nhất, đúng đắn nhất mà con phải gắng sức nghiền ngẫm cho kỹ rồi hết lòng áp dụng trong đời sống, đừng để thì giờ luống uổng trôi qua.
Đây là kết luận cuối cùng của thiên này. Liễu Phàm đặc biệt nhấn mạnh đến thuyết “học lập mệnh” mà Thiền Sư Vân Cốc đã dạy cho ông, đây là học thuyết tinh túy đến cực điểm, “chí tinh”, “chí thúy”. “Thúy” là thâm sâu, sâu đến cùng cực. “Chí chân, chí lí”, chân là quyết định không hư vọng, chính là quyết định không có tơ hào tà quấy. Bản thân ông một đời nỗ lực tu học, cải tạo được vận mạng. Trong mạng ông không có công danh, ông đắc được công danh. Trong mạng ông không có con trai, ông có được con trai. Trong mạng chỉ sống đến 53 tuổi, ông sống đến 74 tuổi, sống lâu hơn 21 năm. Đây chính là chứng minh cho giáo huấn của Vân Cốc Thiền Sư là chính xác, không có sai lầm.
Những bài văn này của Liễu Phàm Tiên Sinh vốn là để dạy cho con cháu đời sau của ông. Đời sau của Liễu Phàm Tiên Sinh cũng rất tốt, biết được những phương pháp cùng lí luận quý giá này, họ không ích kỷ, mà công bố cho đại chúng được biết, hi vọng đại chúng trong xã hội đều hiểu rõ cách học lập mệnh, đều có thể cải tạo số mạng. Chúng ta ở tại địa phương này, quốc gia này, cho đến mở rộng ra toàn Thế Giới, người người đều có thể y cứ theo giáo huấn này mà tu học thì xã hội an định, Thế Giới hòa bình, nhân dân trên toàn Thế Giới được hạnh phúc. Đây là tâm lượng của Cổ Thánh Tiên Hiền Trung Quốc chúng ta, là đức hạnh của họ. Thiên này chúng ta giới thiệu đến đây.
Tiếp theo chúng ta xem thiên thứ hai. Thiên thứ hai là “phương pháp sửa sai”, thiên thứ ba là “phương pháp tích thiện”, hai thiên này là trọng điểm, là trọng tâm. Dùng phương pháp nhà Phật mà nói, thiên thứ nhất là tự phần, là tự văn. Thiên thứ hai, thứ ba là chánh tông, một thiên sau cùng gọi là phần lưu thông. Chúng ta dùng ba phần để xem bốn thiên văn chương này, chỉ thú của văn chương trên đại thể đã rõ ràng. “Học lập mệnh” đã hiểu được rồi, minh bạch rồi, phải từ nơi đâu hạ thủ. Nhất định là từ sửa sai mà hạ thủ. Người không phải sinh ra đã là thánh nhân, làm sao không có lỗi lầm. Khổng tử nói “quá tắc vật đạn cải”, ý nghĩa của câu này muốn nói, nếu có lỗi thì không sợ sửa lỗi, phải có dũng khí sửa lỗi, phải có quyết tâm, phải có nghị lực để sửa. Cho nên, ông đem đạo lí, phương pháp sửa lỗi giáo huấn con trai ông, sai sót nhỏ cũng phải sửa. Chúng ta theo truyền thống, làm việc thiếu phương pháp, bỏ qua sai lầm nhỏ. Nếu ác niệm nhỏ không coi trọng thì lỗi nhỏ sẽ được nuôi dưỡng thành tội ác lớn. Ác niệm nhỏ dần dần thành ác niệm lớn, hậu quả của nó không thể tưởng tượng được. Bây giờ chúng ta xem chính văn.
Đoạn thứ nhất là nói “nguyên nhân sửa lỗi”. Tránh họa cầu phước là thường tình của con người, nhưng cát hung họa phước quyết định là có điềm trước, đây là điều chúng ta không thể không biết. Ở đầu đoạn văn, Liễu Phàm dẫn ra lời dạy của Cổ Nhân:
Xuân thu chư đại phu, kiến nhân ngôn động, ức nhi đàm kỳ họa phước, mĩ bất nghiệm giả, Tả Quốc chư kí khả quán dã.
Các quan đại phu thời Xuân Thu hễ thấy hành động, ngôn ngữ của một người nào đó liền có thể biết họ sẽ gặp họa hay phúc, lời suy đoán của người xưa không phải là không ứng nghiệm, những việc này đều có ghi rõ trong Tả truyện hay Quốc ngữ, chúng ta có thể xem thấy được.
Thời Xuân Thu, Khổng Tử là sinh vào thời này. Thời này vẫn là thời Chu. Nhà Chu đã đi vào giai đoạn cuối, vương thất suy vi, rất nhiều chư hầu đối với thiên tử nhà Chu đều là bề ngoài thần phục nhưng bên trong lại âm thầm đối nghịch, mỗi chư hầu đều có tư tâm muốn phát triển thế lực của mình. Cho nên thời Xuân Thu là xã hội động loạn. Khổng Tử sinh vào giai đoạn này cũng thật cảm khái vô cùng.
Các đại phu thời đó, đại phu là chỉ quân sư một nước, là trợ thủ của các chư hầu, đại khái cũng giống như bộ trưởng, thủ tướng của các tổ chức chính trị hiện nay, đều thuộc giai tầng của đại phu. Họ xem thấy người khác được rất nhiều. Học thức, Kinh nghiệm của họ rất phong phú, chỉ cần xem thấy cử chỉ của họ, nghe thấy lời nói của họ, thì có thể “ức nhi đàm kỳ họa phước”. “Ức” là suy đoán, đoán được cát hung họa phước của người đó trong tương lai, họ đều có thể đoán được rất linh nghiệm. Sự việc này trong Tả Truyện, trong Quốc Ngữ. Tả Truyện và Quốc Ngữ đều là trước tác của Tả Khâu Minh. “Chư ký”, cũng như “Công Dương truyện”, “Cốc Lương truyện”, trong truyện kí rất nhiều, chúng ta có thể xem thấy một cách cụ thể chính xác. Đây là nói cát hung họa phước đều có điềm báo trước.
Tiếp theo văn nói:
Đại đô cát hung chi triệu, manh hồ tâm nhi động hồ từ thể.
Nói chung, mọi dấu hiệu họa phước sắp xảy ra, đều xuất phát từ nội tâm rồi biểu hiện ra hành vi.
Thiện niệm, ác niệm tồn tại trong tâm con người, thiện hạnh ác hạnh do bạn tạo ra đều không thể giấu người khác. Bạn có thể che giấu được kẻ ngốc nhưng bạn không thể giấu được người có học vấn, có đạo đức. Đối với những người này bạn không thể qua mặt được, họ chân thật là vừa nhìn đã xuyên thấu cả phủ tạng của bạn.
Hiện tại thế gian vẫn còn người như vậy. Trong đời này của tôi đã gặp qua vài người tài giỏi như vậy. Ba vị thầy của tôi đều rất khó có được, Tiên Sinh Phương Đông Mỹ, Chương Gia Đại Sư, Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Họ đều có cái năng lực này. Tiếp xúc với đại chúng, có lúc họ ngẫu nhiên nói ra “người nào đó mệnh rất bạc, không có phước báu, không có thọ mạng”. “Người nào đó tâm địa thuần phác, có tích công lũy đức, tương lai tất có phước báu”. Họ có thể xem thấy được rất rõ ràng, rất minh bạch, đối với những ai phước mỏng đều sinh lòng thương xót, dạy họ cách sửa lỗi tu thiện, cách chuyển đổi vận mệnh. Tôi lúc còn trẻ, thuộc về loại người không có phước báu, đoản mệnh. Tôi chịu học, chịu nghe lời dạy của Thầy, cho nên Thầy đặc biệt thương xót tôi, dạy tôi cách cải đổi vận mệnh, tự cầu đa phước. Cho nên những dự triệu đều vô cùng rõ ràng. “Manh hồ tâm nhi động hồ tứ thể”, trong tâm khởi niệm tự nhiên liền biểu hiện ra bên ngoài, chính là ngôn ngữ động tác. Làm sao để nhìn được.Ở đây có nêu ra một nguyên tắc:
Kỳ quá ư hậu giả thường hoạch phúc, quá ư bạc giả thường cận họa.
Như người nhân hậu rộng lượng thường được phước. Người khắc khe hẹp hòi thường gặp họa.
Đây là hai nguyên tắc để quán sát người: bạn xem thấy người này tâm địa thiện lương, tử tế, đãi người trọng hậu, nơi nào cũng cũng chỉ nghĩ cho người khác, người này tương lai nhất định được phước. Nếu như anh ta là người tương phản, bụng dạ hẹp hòi, khởi tâm động niệm đều vì lợi ích bản thân, làm việc đều là tổn người lợi mình, đối với bản thân không có lợi thì anh ta quyết không làm, đối xử với người khác thì rất khắc bạc, những người này không có phước báu. Mặc dù trước mắt anh ta có phước báu, phước báu đó chính là phước trong mạng anh ta sẵn có, phước trong mạng thì rất nhỏ. Bởi vì anh ta có tâm bất thiện, hành vi bất thiện, phước của anh ta đã bị chiết giảm, nhưng vẫn còn dư phước. Do đây có thể biết, anh ta phải giữ tâm tốt, hành việc tốt, phước báu của anh ta mới một đời hưởng không hết, phước dư của anh ta nhất định để lại cho con cháu hưởng.
Đây là chân tướng sự thật.
Tục nhãn đa ế, vị hữu vị định nhi bất khả trắc giả.
Mắt phàm tục không nhận rõ nên cho rằng họa phúc chưa hình thành thì không thể suy đoán trước được.
Người thế tục không có học vấn, không có kiến thức thường thức này, nhãn quang của họ bị che phủ, người hiện tại chúng ta thường nói là bệnh “bạch chướng nội”, mắt bị bệnh màng trắng gây chướng ngại, bạn làm cách nào cũng không nhìn thấy được. Ý nói họa phước không là nhất định, hơn nữa con người không thể dự biết trước được, đây chỉ là cách nhìn của người phàm phu mà thôi. Người chân chánh có học vấn, có đức hạnh không có cái nhìn như vậy, họ nhìn được rất rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch. Tiếp theo nói:
Chí thành hợp thiên, phúc chi tương chí, quán kỳ thiện nhi tất tiên tri chi hĩ, họa chi tương chí, quán kỳ bất thiện nhi tất tri chi hĩ.
Theo nguyên tắc, lòng chân thành là lòng hợp với Trời. Muốn đoán phước sắp đến hay không chỉ cần biết người ấy có lòng thiện hay không. Muốn đoán họa sắp đến hay không chỉ cần biết người ấy có lòng ác hay không.
Đây là nói họa phước có thể thấy trước được, có thể dự đoán được tương đối chuẩn xác. Chúng ta có cái năng lực này hay không.Đáp án là khẳng định có. Trong câu nói đầu tiên ở đoạn này, ông đã nói “chí thành hợp thiên” (Một người có lòng chí thành sẽ hợp với ý Trời). Chúng ta nếu muốn có năng lực này, chỉ cần đem bốn chữ trên làm cho được, “thiên” là chỉ phép tắc tự nhiên, không tăng thêm vào một tơ hào ý nghĩ nào của mình trong đó. Tơ hào ý nghĩ này chính là vọng tưởng, phân biệt mà chúng ta thường nói, tuyệt đối không được có thêm một tơ hào vọng tưởng phân biệt, thì chúng ta cũng sẽ có được năng lực này. Tâm địa chân thành, thanh tinh, bình đẳng thì năng lực này sẽ hiện tiền. Phước báu của một người muốn nhanh chóng hiện tiền, bạn chỉ cần xem anh ta “quán kỳ thiện nhi tất tri chi”. Thì bạn có thể thấy được, nếu tâm của anh ta thiện, lời nói thiện, hành vi thiện, anh ta đối xử với người rất tử tế, chúng ta có thể đoán được là phước báu của anh ta sẽ đến được rất nhanh. Nếu như tư tưởng ngôn hành của anh ta là bất thiện, chúng ta liền biết được tai nạn của anh ta ngày càng kề cận rồi. Đây là phạm vi nhỏ. Còn ở phạm vi lớn là quán sát xã hội này, quán sát một gia đình, quán sát một đoàn thể, cho đến quán sát quốc gia, Thế Giới, không thể không chuẩn xác. Ở đây là có đạo lí, có học vấn, quyết không phải là vọng ngôn. Bản thân chúng ta cần phải hiểu được cuộc đời của chính bản thân mình, đặc biệt là cát hung họa phước xảy đến trong tương lai, nên cần phải từ chỗ này mà phản tỉnh, phải từ khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác của chúng ta mà phản tỉnh. Nếu như thuần thiện, bản thân có thể khẳng định là tiêu tai phước đến. Nếu như tâm tánh của mình bất thiện, ngôn ngữ bất thiện. Ngôn là hoa ngôn xảo ngữ khi dối chúng sanh. Hành vi bất thiện thì bản thân phải cảnh giác, vì họa hoạn tai nạn nhất định là đang đến gần. Từ cá nhân cho đến gia đình, đến xã hội, đến quốc gia, đến Thế Giới, không cái gì không như vậy cả.
Phía sau là nói “cải quá chi cơ sở, cơ sở của việc sửa sai”.
Kim dục hoạch phúc nhi viễn họa.
Đây là gần điều may mắn, tránh điều hung hiểm.
Vị luận hành thiện, tiên tu cải quá.
Nói đến hành thiện, trước tiên phải sửa đổi lỗi lầm.
Hai câu nói này rất quan trọng. Cho nên hai chương “phương pháp sửa sai” và “phương pháp tích thiện”, thứ tự sắp xếp là từ đây mà ra. Chúng ta không nói đến hành thiện tích đức trước, mà trước tiên là nói sửa sai. Tại sao. Lỗi nếu như không sửa, sửa không triệt để, sửa không đến rốt ráo, thì tuy là tu thiện, trong thiện lại xen tạp việc ác, làm thiện không tinh thuần, thì công đức của điều thiện đó cũng không đủ để hiển lộ ra. Do vậy, sửa sai là điều kiện tiên quyết của việc tích thiện.
Hôm nay chỉ giảng đến đây thôi.
A DI ĐÀ PHẬT!
Liễu Phàm Tứ Huấn
Chuyển ngữ: Đệ Tử Như Hòa
Chủ giảng: Lão HT. Tịnh Không
Discussion about this post