CHƯƠNG BA
Xin chào các vị đồng tu, xin chào mọi người!
Phía trước đã nói đến “hữu cầu tất ứng”. Vân Cốc Thiền Sư đã đặc biệt tăng thêm ngữ khí khi ông nói, “vọng ngữ là đại giới trong nhà Phật, Chư Phật Bồ Tát sao có thể nói lời khi dối người chứ”. Những lời này đã giúp ông Viên Liễu Phàm tăng thêm lòng tin. Sau khi nghe xong, Viên Liễu Phàm nói:
Dư tiến viết: Mạnh tử ngôn: “cầu tắc đắc chi, thị cầu tại ngã giả dã. Đạo đức nhân nghĩa, khả dĩ lực cầu, công danh phú qúy, như hà cầu đắc?”
Nghĩa là: ta liền nói: Mạnh tử dạy cầu mà được bởi vì điều cầu đó có ở trong tâm ta. Như đạo đức nhân nghĩa có thể tìm cầu. Còn công danh phú quý, làm sao cầu được?.
Liễu Phàm tiếp tục hướng về Vân Cốc Thiền Sư thỉnh giáo. Mạnh Tử đã từng nói qua cầu mà được bởi vì điều cầu đó có ở trong tâm ta. Đạo đức nhân nghĩa, điều này ta có thể cầu được. Còn công danh phú quý là điều ở ngoài thân, làm sao có thể cầu được.
Vân Cốc viết: Mạnh Tử chi ngôn bất thác, nhữ tự thác giải liễu. Nhữ bất kiến Lục Tổ thuyết, nhất thiết phước điền bất ly phương thốn. Tòng tâm nhi mịch, cảm vô bất thông, cầu tại ngã, bất độc đắc đạo đức nhân nghĩa, diệc đắc công danh phú quý, nội ngoại song đắc, thị cầu hữu ích ư đắc dã.
Vân Cốc trả lời rằng Mạnh Tử nói không sai, chỉ vì ngươi hiểu sai mà thôi. Ngươi không nghe Lục Tổ nói sao. Tất cả phước điền đều không rời tâm. Từ nơi tâm mình mà cầu thì mọi sự đều cảm ứng. Tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ cầu được đạo đức, nhân nghĩa. Mà ngay cả công danh, phú quý cũng cầu được. Trong ngoài đều được. Cầu như vậy mới hữu ích vì cầu mà được vậy.
Đoạn đối thoại này vô cùng quan trọng, Vân Cốc Thiền Sư chung quy vẫn là một người tu hành. Khi hai người gặp nhau, Viên Liễu Phàm 35 tuổi, còn Thiền Sư lúc đó đã 69 tuổi. Hơn nữa, ông còn là một người tu hành chân chánh đắc đạo. Trung Quốc chúng ta thường nói “đắc đạo” là nói người đã chân chánh khai ngộ, chân chánh khế nhập được vào cảnh giới của Phật, Bồ Tát. Cho nên, lời của Mạnh Tử không sai, chỉ là ông đã hiểu sai ý nghĩa của nó mà thôi. Lời nói của Mạnh Tử không sai ở chỗ nào, còn ông Viên Liễu Phàm giải sai ở điểm nào. Ở đây không nói nhiều, tôi giảng qua, chư vị phải tỉ mỉ mà thể hội. Hai câu nói này của Vân Cốc Thiền Sư, bạn tự nhiên liền minh bạch, phía sau, ông còn cử ra câu nói của Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư. Câu này ở trong “Lục Tổ Đàn Kinh”, nhất thiết phước điền, bất ly phương thốn. “Phương thốn” chính là chỉ cho tâm địa của chúng ta. Cát hung họa phước là từ trong tâm chúng ta biến hiện ra, bất li phương thốn. Tòng tâm nhi mịch cảm vô bất thông, chúng ta cầu cảm ứng, cầu cảm ứng thì từ chỗ nào mà cầu. Từ chân tâm mà cầu. Cho nên cầu phú quý được phú quý, cầu trai gái được trai gái, cầu sống lâu được sống lâu. Cho nên, bạn phải hiểu được cái đạo lý tìm cầu, phải biết được cái phương pháp tìm cầu. Nếu bạn như lý như pháp mà cầu, có điều gì bạn không cầu được chứ. Thế xuất thế gian khó nhất là thành Phật, thành Phật mà còn có thể cầu được thì hà huống gì là công danh, phú quý thế gian. Điều đó rất bình thường, tính toán làm gì, nào có đạo lý không cầu được chứ. Nào có đạo lí cầu không được, chúng ta hôm này cầu, quan trọng nhất là thông, cái gì gọi là “thông”. Chính là quán thông không gian duy thứ, ở đây tôi muốn nói, người hiện đại tương đối dễ lí giải. Dùng phương pháp gì để “quán thông”? chính là dùng tâm chân thành. Thế nào gọi là “thành”, thế nào gọi là “chân”. “Chân” là không vọng, không hư vọng, một tơ hào hư vọng cũng không có. Còn thế nào gọi là “thành. Vào những năm cuối đời Thanh, Tăng Quốc Phan Tiên Sinh nói được rất hay, trong “Độc thư bút ký”, ông đã cho chúng ta một định nghĩa về chữ Thành như sau “một niệm không sanh thì gọi là thành”. Định nghĩa này vô cùng chính xác. Trong Phật Pháp nói một vọng niệm cũng không có thì gọi là chân thành, tâm chân thành chính là bổn tánh của chúng ta, cũng chính là chân tâm của chúng ta. Thế xuất thế gian nhất thiết pháp đều từ trong chân tâm bổn tánh biến hiện ra. Bạn tìm ra được chân tâm bổn tánh thì sao có đạo lý cầu không được.
Nói đến Sự Lý, Thích Ca Mâu Ni Phật trên Đại Thừa Kinh Giáo đã nói đến rất nhiều rất nhiều, những ai học đại thừa đều biết những giáo huấn này của Phật. Những người nào được thọ dụng.
Những người y giáo phụng hành sẽ có chỗ thọ dụng, sẽ đạt được lợi ích. Nếu như bạn đọc Kinh, bạn chỉ cần đọc, không nên đi lí giải đạo lý trong Kinh, không tìm hiểu ý nghĩa của nó. Nếu bạn không thể đem những phương pháp đạo lí này chân thật áp dụng trên hành vi, sinh hoạt của bạn. Bạn sẽ không đạt được lợi ích, bạn vẫn là chưa thông. Không thông thì dù bạn có cầu cũng không thể có cảm ứng.
Trong quá khứ, tôi đã từng đề khởi vấn đề này, đại khái là 30 năm trước, lúc tôi ở tại Chùa Pháp Hoa, đường Tây Môn, thuộc Đài Bắc, giảng Kinh Địa Tạng. Tôi còn nhớ lúc đó tôi giảng Kinh, Pháp Sư Quảng Khâm có đến nghe một lần, ông ngồi ở phía dưới, trên một tấm bồ đoàn. Có một ngày, khi tôi đang giảng Kinh, một vị Pháp Sư ở Cơ Long nghe tôi giảng đến vấn đề cảm ứng. Ông liền đến hỏi tôi, Pháp Sư, cái đạo lý cảm ứng mà ông nói hoàn toàn không đáng tin cậy. Tôi nói sao không đáng tin cậy chứ. Ông nói: tôi mỗi ngày đều hướng đến Phật Bồ Tát cầu một cái tủ lạnh, cầu đã ba năm nay mà vẫn chưa có. Tôi liền cười hỏi, Pháp Sư, Đạo Tràng của ông có bao nhiêu người vậy? Ông đáp chỉ có một mình tôi ở đó. Tôi nói, chỉ có một mình Ngài ở đó, đâu cần thiết phải có một cái tủ lạnh, vì vậy mới cầu không được.
Tôi lại nói trong những năm gần đây, tôi đều là “có cầu tức có ứng”. Ông ấy hỏi tôi cầu những gì.Tôi nói vì tôi phải giảng Kinh cho nên tôi muốn tham khảo tư liệu. Lúc đó tại Đài Loan, việc tìm kiếm thư tịch Kinh Điển quả thực là không dễ dàng gì. Rất khó có được, là có người đã giới thiệu cho tôi Pháp Sư Trí Khai ở Hương Cảng, tôi và Pháp Sư Trí Khai chưa từng gặp mặt, tôi cứ ngỡ rằng ông ấy là một vị Pháp Sư lớn tuổi. Cho nên mỗi lần viết thư, tôi đều cung cung kính kính mà xưng là “Lão Pháp Sư”. Sau này gặp mặt mới biết, hai người chúng tôi là đồng niên. Pháp Sư Trí Khai giúp đỡ cho tôi rất nhiều, phàm là những thư tịch tôi cần thì ông đều sưu tập lại, rồi gởi đến Đài Loan cho tôi. Khi nào tôi có tiền, khi đó tôi mới hoàn trả cho ông, còn khi nào không có tiền, thì tôi nợ lại. Điều này đã giúp đỡ cho tôi rất nhiều. Hầu như, những sách mà tôi đưa ra, những thứ mà tôi cần đều là thư tịch cổ, ông đều tìm giúp tôi. Trong số đó có một bộ thời gian tìm rất lâu, mất hết nửa năm, bộ sách “Trung Quán Luận Số”. Bộ sách này sáu tháng sau ông mới gởi đến cho tôi. Thật không dễ tìm mà.
Tôi nói với vị Pháp Sư đó rằng, tôi là hữu cầu tất ứng, cái mà tôi cầu là cầu đạo, là cái mà tôi thật sự cần. Còn Ngài cầu cái tủ lạnh, cái này đâu cần thiết. Người xuất gia trên phương diện đời sống vật chất cần phải thanh bần, không nên xa hoa. Cái mà Ngài cầu không như pháp, còn cái mà tôi cầu là như pháp, nếu mà cầu đúng như lý như pháp thì chân thật là hữu cấu tất ứng. Cho nên tôi đối với sự chỉ dạy của thầy, đối với điều được nói trên Kinh Điển là tin sâu không nghi.
Tùng tâm nhi mịch.
Cảm vô bất thông, tám cái chữ này chính là đạo lý và phương pháp của hữu cầu tất ứng vậy. Cầu từ trong tâm thì không chỉ đạo đức nhân nghĩa, mà ngay cả công danh phu quý cũng có thể cầu được, trong ngoài đều được, cầu như vậy mới hữu ích vì cầu được vậy. Chúng ta phải phát tâm cầu việc thiện, không được cầu việc ác, như vậy mới tốt.
Tiếp theo sau, Kinh Văn viết: Nhược bất phản cung nội tỉnh, nhi đồ hướng ngoại trì cầu, tắc cầu chi hữu đạo, nhi đắc chi hữu mệnh hĩ, nội ngoại song thất, cố vô ích.
Nếu không hướng nội phản tỉnh mà chỉ biết hướng ngoại tìm cầu, thì cách cầu như vậy chỉ đạt được những cái trong số mệnh vốn có mà thôi, trong ngoài đều mất, cho nên vô ích vậy.
Những lời Đại Sư khai thị, từng câu từng chữ đều vô cùng quan trọng. Chúng ta muốn cầu, bất luận là đức hạnh bên trong hay tài vật bên ngoài, chính là những nhu cầu tất yếu trong cuộc sống. Nếu bạn không biết phản cung nội tỉnh. Cái cầu này là phản tỉnh, hồi đầu. Nhà Phật thường nói “hồi đầu thị ngạn quay đầu là bờ”, bạn cần phải quay lại nội tâm mà phản tỉnh. Nếu hướng nội mà tìm cầu nhất định bạn sẽ cầu được. Nếu như bạn không thể phản tỉnh, không thể vun bồi cho đức hạnh của mình, mà chỉ biết hướng ngoại phan duyên thì cầu chi hữu đạo, đắc chi hữu mệnh. Nghĩa là “phương pháp của bạn, nếu có cầu được, chỉ là do trong số mạng đã sẵn có”. “Đạo” là chỉ phương pháp mà bạn cầu, lí luận mà bạn dùng. Giống như hiện tại, trong các nhà sách, trên các thông tin, chúng ta xem thấy trên Thế Giới có những doanh nhân rất thành công, đã viết ra những bài học Kinh nghiệm cho sự nỗ lực thành công trên thương trường của họ, để mọi người lấy làm tham khảo. Nếu như bạn dùng những phương pháp lí luận trong đó của họ để tìm cầu, và những cái bạn muốn có thể cầu được thì là do trong mạng của bạn có. Nếu trong mạng của bạn không có, thì vẫn là không cầu được. Tại sao vậy, bởi vì bạn không từ trong chân tâm để cầu, không từ trong tâm tánh để cầu. Phương pháp cầu như vậy thật đúng là “trong ngoài đều mất, nên vô ích”. Chúng ta nhìn thấy trong xã hội ngày nay, những người như vậy thật quá nhiều, quá nhiều. Đoạn này Đại Sư muốn nhắc nhở chúng ta.
Ở đọan sau là đề cập đến phương pháp cải tạo vận mệnh, bao gồm vài đoạn văn ngắn. Đoạn đầu tiên là nói bạn nhất định phải biết lỗi lầm của bản thân, chân thật phản tỉnh, tìm cho ra căn nguyên của chúng. Thí như, trong mạng của bạn không có con trai, nguyên nhân của không có con trai là gì, thọ mạng ngắn. Nguyên nhân của đoản mệnh là gì.
Nhân vấn Khổng công toán nhữ chung thân nhược hà.
Vân Cốc Thiền Sư hỏi Liễu Phàm, Khổng Đạo trưởng đoán mệnh cho ngươi thế nào, cuộc đời của ngươi ra làm sao.
Dư dĩ thực cáo.
Viên Liễu Phàm thành thật hướng đến Vân Cốc Thiền Sư báo cáo hết.
Vân Cốc viết: nhữ tự sủy ứng đắc khoa đệ phủ, ứng sanh tử phủ. Ông quay đầu lại hỏi tôi rằng, ngươi thấy ngươi có xứng đáng đắc khoa cử hay không, ý nói công danh. Ngươi có xứng đáng có con trai hay không, nhất định cần phải hướng nội phản tỉnh.
Dư truy tỉnh lương cữu.
Ông nghe lời nói ấy của Vân Cốc Thiền Sư thì suy nghĩ rất lâu.
Bất ứng dã.
Ông trả lời con không xứng đáng. Liễu Phàm là người đọc sách, cũng là người thông minh, ông suy nghĩ một lát liền đưa ra được không ít lí do.
Khoa đệ trúng nhân, loại hữu phúc tướng. Dư phúc bạc, hựu bất năng tích công lũy hạnh, dĩ cơ hậu phúc, kiêm bất nại phiền kịch, bất năng dung nhân, thời hoặc dĩ tài trí cái nhân, trực tâm trực hành, khinh ngôn vọng đàm. Phàm thử giai bạc phúc chi tướng dã, khởi nghi khoa đệ tai.
Vì những người thi đậu làm quan là những người có phước tướng. Con phước mỏng, hơn nữa không chịu tích công bồi đức để tạo phước dày, lại thêm tính không nhẫn nại, thường bực bội nóng nảy, cũng không biết bao dung người khác, thường cậy tài năng chèn ép người khác, nghĩ gì làm nấy, không thận trọng lời nói, lại hay nói bậy. Những điều như thế đều là tướng vô phước, sao xứng đáng đỗ đạt công danh.
Liễu Phàm liền hồi đầu phản tỉnh, đem những tật xấu của mình nói hết ra, đây là điều rất khó có được. Cho nên, người bình thường vốn rất ít nói như Vân Cốc Thiền Sư, ông rất hiếm khi mở miệng với người khác, có khi cả ngày cũng không có tiếng nói, lại cùng Tiên Sinh Viên Liễu Phàm nói nhiều như vậy, thật không dễ. Đây là điều mà Cổ Nhân thường nói “chân chánh gặp được tri kỉ”, cho nên mới nói nhiều như vậy.
Liễu Phàm nghĩ bản thân ông không xứng đáng, tại sao vậy.
Khoa đệ trúng nhân.
Người trúng khoa cử, là chỉ cho những người thi đỗ làm quan đều phải có phước tướng, trong khi bản thân ông phước rất bạc, chỉ ông không có phước thì làm sao có thể thi đỗ được. Thêm vào đó, ông có rất nhiều khuyết điểm, ông không biết tích công lũy đức để phước dày hơn. Cơ là cơ sở, từ trên cơ sở đó bồi dưỡng phước đức cho mình, điều này ông không làm được. Tại sao lại không làm được, vì “bất nại phiền kịch” . Thiếu nhẫn nại lại hay nóng nảy buồn phiền, tánh khí hẹp hòi, không biết bao dung người khác.
Thời hoặc dĩ tài trí cái chi.
Thường hay cậy vào tài trí của mình mà chèn ép người khác. “cái” là lấn lướt, nhằm hạ bệ người khác. Người hiện tại nói là thích làm trung tâm, thích áp chế người khác. Trực tâm trực hành, điều này có nghĩa trong tâm anh nghĩ muốn nói gì thì liền nói cái đó, chứ không phải ý nghĩa trực tâm trực hành mà Cổ Thánh Tiên Hiền dạy trong Kinh Giáo.
Trong Kinh Duy Ma có nói: “trực tâm là Đạo Tràng”, ý nghĩa của trực tâm trực hành ở trong Kinh là không có vọng tưởng, không có phân biệt, không có chấp trước. Còn đây lại chính là vọng tưởng phân biệt chấp trước. Là tập khí, tật xấu.
Khinh ngôn vọng đàm.
Nói mà không suy nghĩ, tùy tiện mà nói. Tất cả đều là “bạc phúc chi tướng”. Chính bản thân ông hiểu được “con tật xấu nhiều như vậy, ngày ngày đều là tạo nghiệp, sao có thể thi đỗ công danh”. Thời xưa, khoa cử là chỉ việc tham gia khảo thí do nhà nước tổ chức để đạt được học vị, chính là học vị mà ngày nay chúng ta nói. Thời xưa cũng có ba học vị bao gồm Tú tài, Cử nhân, Tiến Sĩ. Tương ứng với ba học vị trong trường học của chúng ta hiện nay là Học sĩ, Thạc sĩ, Tiến sĩ. Điều này nói rõ nguyên nhân mà ông ta không có được công danh là bởi vì ông không có phước. Phía sau, ông tiếp tục nói nguyên nhân vì sao ông không có con trai.
Địa chi uế giả đa sinh vật, thủy chi thanh giả thường vô ngư.
Đất dơ có nhiều sinh vật, nước trong không có cá tôm.
Hai câu nói trên là thành ngữ. Đất, chúng ta thấy ở nơi nào đất dơ bẩn thì chúng sinh vật sinh trưởng ở đó rất nhiều, gọi là đất đai màu mỡ. Còn nước trong quá thì không có cá.
Dư hiếu khiết. Ông thích sạch sẽ.
Nghi vô tử nhất giả. Thích sạch sẽ lại biến thành bệnh quá sạch, vậy làm sao có thể có con? Đây là lí do thứ nhất không có con trai.
Nguyên nhân không đáng có được con trai.
Hòa khí năng dục vạn vật, dư hiếu nộ, nghi vô tử giả nhị.
Hòa khí vô cùng quan trọng, ngạn ngữ nói “gia hòa vạn sự hưng”. Một quốc gia không có sự hòa hài, quốc gia đó không thể giàu mạnh được. Nếu bất hòa thì dấu hiệu suy bại đã ở trước mắt rồi vậy. Cho nên “Hòa” quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Ông không có hòa khí, thường hay nóng giận, câu này có nghĩa, chính là điều mà chúng ta nói “cống cao ngã mạn, cuồng vọng tự đại, không coi ai ra gì”. Liễu Phàm nghĩ mình như vậy nên không xứng đáng có được con trai.
Thứ ba: Ái vi sanh sanh chi bổn, nhẫn vi bất dục chi căn, dư căng tích danh tiết, thường bất năng xả kỉ cứu nhân, nghi vô tử giả tam.
Đây là điều thứ ba ông không xứng có con trai. “Ái” chỉ từ ái, là căn bản của sự sanh sôi nảy nở, ông không có tâm yêu thương nên tâm địa rất tàn nhẫn. Tàn nhẫn lại là căn nguyên của việc không sinh sản. Ông còn nói ta đối với danh tiết của bản thân vô cùng xem trọng. Chỉ vì quá coi trọng danh tiết nên không thể xả kỷ vị nhân.
Đây là nguyên nhân thứ ba ông không xứng đáng có con trai.
Tiếp theo, ông nói: Đa ngôn hao khí, nghi vô tử giả tứ.
Ông thích nói, thích than phiền, thích châm chích người. Nói theo cách nói hiện nay là ông thích mỉa mai người khác, ở trước đám đông thường khiến người khác phải khó xử, chính là thích trêu chọc người. Đó là nguyên nhân thứ tư ông không có con trai.
Hỷ ẩm thước tinh, nghi vô tử giả ngũ.
Hỷ ẩm là nói ông thích uống rượu, lại thường uống say, nên làm tổn hại đến tinh thần thể lực của mình. Đây cũng là nguyên nhân thêm, khiến ông không có con trai.
Hiếu triệt dạ trường tọa nhi bất tri bảo nguyên dục thần.
Ông thích ngồi thâu đêm, khuya mà vẫn không đi ngủ, không biết bảo dưỡng nguyên thần. Tất cả những điều này khiến ông không có con trai, cho dù có con thì đứa trẻ đó cũng đỏan mệnh.
Kỳ dư quá ác thượng đa, bất năng tất sổ.
Tật xấu của con quá nhiều, không thể đếm xuể. Ông phản tỉnh lại chính mình thì nhận thấy tật xấu thật quá nhiều quá nhiều.
Nói đến “triệt dạ trường thọ”, trong nhà Phật có nói đến “bất đáo thiền”, dùng cách ngồi thiền để thay cho việc ngủ nghỉ. Câu này tôi nói mang ngữ khí không tốt, các bạn phải nghe hiểu được. Ngồi thiền trong định thì tâm thanh tĩnh, chứ không phải ngủ gục. Nếu như ngồi thay cho ngủ, thì không phải nằm ngủ thoải mái hơn sao. Ngồi ngủ thì thật quá khổ. Cái đạo lý này nhất định phải hiểu.
Thời gian đầu học Phật tôi rất ngưỡng mộ, bởi vì người có thể học được bất đáo thiền không nhiều, ngay cả giường chiếu cũng không cần, sinh hoạt càng đơn giản thì càng tự tại. Tôi đã từng hỏi qua Thầy Lý rằng, con học cái này có được hay không. Bởi vì ở Đài Trung, tôi học mỗi ngày ăn một bữa. Tôi có thời gian 5 năm mỗi ngày chỉ ăn một bữa, sáng tối đều không ăn, tinh thần thể lực vẫn rất tốt. Lão Sư cũng rất hoan hỷ, rất tán thán. Bởi vì Thầy vốn dĩ cũng ngày ăn một bữa, đại khái suốt bốn, năm mươi năm đều như thế. Tôi ở Đài Trung học Thầy.
Tôi tiến thêm một bước, muốn học bất đáo thiền tức ngủ ngồi.
Thầy cười nói nằm ngủ so với ngồi ngủ không phải thoải mái hơn hay sao. Về sau tôi cũng thôi luôn, không muốn học nữa. Tại sao vậy? Thầy đã làm gương cho tôi. Tôi không cách gì nhập định, chẳng qua cũng chỉ là ngồi ngủ mà thôi. Chúng tôi cũng xác thực trông thấy những người học bất đáo thiền đó, tôi đã tỉ mỉ quan sát, anh ta là ngồi ở đó mà ngủ, ngồi ngáy, ngồi ngủ gục. Cho nên anh ta không phải là nhập định, không hề giống Hư Vân Lão Hòa Thượng. Hòa Thượng Hư Vân là ngồi nhập định, không phải ngủ.
Chân chánh là người tu hành thì ý niệm tự tư tự lợi phải đoạn sạch, đối với ngũ dục lục trần của thế gian, xác thực là không động tâm.
Thời gian đó, tâm của ông rỗng rang, lại không có âm khí nên có thể ở trong định. Trí huệ sáng suốt, niệm niệm tăng trưởng, hiện tượng ngủ nghĩ đã đoạn được. Muốn đoạn được ngủ nghỉ phải có công phu, tâm địa phải thanh tịnh, thanh tịnh đến một trình độ nhất định thì không cần đến ngủ nghỉ nữa. Bởi vì tài sắc danh thực thùy, năm món ngũ dục này chỉ có ở dục giới. Sắc giới cùng vô sắc giới đều không có. Do đây có thể thấy, những thứ này có thể đoạn được còn phiền não tập khí của bạn thì không thể đoạn. Vậy thì bạn đâu cần miễn cưỡng ngồi mà ngủ chứ. Điều này tổn hại đến thân thể, sống không mạnh khỏe, điều này chúng ta cần phải biết. Cho nên trong việc tu hành, ngàn vạn lần không nên coi trọng sĩ diện, hiếu thắng, những gì bản thân không làm được thì đừng nên miễn cưỡng, đến cuối cùng chỉ làm cho bản thân mình thương tổn mà thôi, đây không phải là việc làm ngu si hay sao.
Sau khi Tiên Sinh Viên Liễu Phàm phản tỉnh.
Vân Cốc viết: Khởi duy khoa đệ tai, thế gian hưởng thiên kim chi sản giả, định thị thiên kim nhân vật, hưởng bách kim chi sản giả, định thị bách kim nhân vật, ứng ngạ tử giả, định thị ngạ tử nhân vật. Thiên bất quá nhân tài nhi đốc, ki tằng gia tiêm hào ý tư.
Vân Cốc Thiền Sư nói, Không chỉ là khoa cử, thế gian có người hưởng được gia tài ngàn lượng vàng, trở thành tỷ phú. Có người hưởng được gia sản trăm lạng vàng, trở thành triệu phú, cũng có người bị chết đói. Trời cũng chỉ là dựa vào số mạng của họ thôi, nào có thêm bớt theo ý mình.
Những lời nói này vô cùng chí lý, chúng ta phải tỉ mỉ mà suy xét. Vân Cốc Thiền Sư dạy cho Viên Liễu Phàm Tiên Sinh. Ông nói, nào chỉ nói đến thi cử công danh thôi đâu, trên thế gian người đại phú đại quý, trong nhà có tài sản ngàn vạn lượng vàng, anh ta đã được ấn định là người giàu có. Câu này ý nói, anh ta phải có cái phúc phận đó mới được. Nếu đời trước anh ta không tu phước thì đời nay làm sao có được phước báu như vậy. Nếu đời trước tu tích được nhiều thì đời nay phước báu lớn. Đoạn này có ý nghĩa như vậy. Nếu không có phước báu, phải chịu chết đói, cũng chính là ở đời quá khứ đã tạo tác tội nghiệp quá thâm trọng. Báo ứng là do chính mình làm chính mình chịu, cùng Trời, đất, quỷ Thần, chư Phật Bồ Tát không có can hệ. Cho nên phía sau ông có nói, Trời cũng chỉ là dựa theo số mạng của họ mà thôi, nào có thêm bớt theo ý mình. Câu này có nghĩa, ông Trời rất công bằng đối với tất cả chúng sanh, ông Trời ở đây thực chất là nói chính là quả báo tự nhiên, xác xác thực thực không có một thành kiến nào khác, không có một ý tứ nào khác ở đây. Phía sau là nói với ông ta tầm quan trọng của việc tích công lũy đức. Ông liền nói:
Tức như sanh tử, hữu bách thế chi đức giả, định hữu bách thế tử tôn bảo chi, hữu thập thế chi đức giả, định hữu thập thế tử tôn bảo chi, hữu tam thế nhị thế chi đức giả, định hữu tam thế nhị thế tử tôn bảo chi, kì trảm yên vô hậu giả, đức chí bạc dã.
Vấn đề sinh con nối dõi cũng vậy, có người tích công đức trăm đời sẽ để lại cho trăm đời con cháu hưởng. Người tích công đức mười đời sẽ để lại cho mười đời con cháu hưởng. Người chỉ tích được công đức hai đời, ba đời thì chỉ để lại cho hai đến ba đời con cháu hưởng. Còn những người vô hậu thì cho thấy phước của họ quá mỏng vậy.
Đây là Vân Cốc Thiền Sư chiếu theo những tri kiến thông thường, để khuyên bảo Liễu Phàm Tiên Sinh tích công lũy đức.
Bách thế chi đức.
Cổ Thánh Tiên Vương trước đây của Trung Quốc chúng ta, tôi từ trong lịch sử xem thấy Vũ Vương. Đời Hạ, Thương, Chu; Nhà Hạ trị vì 400 năm, nhà Thương trị vì 600 năm, nhà Chu trị vì 800 năm, đây là những triều đại dài lâu nhất trong lịch sử, do tổ tông hữu đức. Nhà Chu có thể trị vì lâu như vậy là vì Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công. Công đức mà họ tích lũy được là công đức trăm đời, nhất định là trăm đời con cháu được hưởng, đây là cái nhìn của thế tục. Còn nói đến người không ở ngôi vua, Trung Quốc có Khổng Tử. Giáo học của Khổng Tử là dùng đại công vô tư, chân thành ái tâm, không phân biệt để giúp đỡ cho tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Công đức của ông tích được rất lớn. Ngày nay chúng ta xem thấy, con cháu đương thời của ông, đại khái truyền đến hơn 70 đời.
Ông không chỉ được người Trung Quốc tôn kính. Tiên Sinh Khổng Đức Thành đi đến Mỹ, ở tại Cựu Kim Sơn, ông ấy nhận được sự kính trọng của các nhân sĩ, xã hội Mỹ ở đó. Mọi người chỉ cần nghe nói đó là hậu nhân của Khổng Lão Phu Tử thì đối với ông đặc biệt kính trọng, chính là cái sự việc như vậy.
Thập thế chi đức. Cũng giống như đế vương lịch triều Trung Quốc. Ngày nay chúng ta đang nói về Tiên Sinh Viên Liễu Phàm, ông là người Minh Triều. Minh Triều Thái Tổ là tiền nhân của ông, đại công đại đức ông ấy tích được có thể truyền đến 17 đời. Nhà Minh ở ngôi hơn 270 năm. Chúng ta hãy xem xem người thế gian, những gia đình giàu có, có thể truyền được ba đời, hai đời. Trong xã hội hiện nay đã không còn nhiều nữa, tuy nhiên vẫn thấy. Còn trường hợp một đời đã hết phước, thậm chí tuổi già của mình cũng không chu toàn được. Trung niên phát tài, tuổi già phá sản, trường hợp này thì thường thấy trong xã hội. Đây là cái tình huống gì vậy.
Đức chí bạc. Anh không tích công lũy đức, khởi tâm động niệm, hành vi tạo tác đều là tự tư tự lợi, nếu làm được một chút điều tốt, thì không buông bỏ được danh văn lợi dưỡng. Anh ta làm viện thiện nhưng nếu việc thiện đó không có điều kiện thì anh ta không làm. Những việc tốt mà anh ta làm đối với xã hội tất yếu phải đạt được giá trị của nó, để được đại chúng tán thán, được chính phủ ca ngợi biểu dương, để được mọi người công nhận tài năng của mình. Những việc thiện mà anh ta làm không phải là từ chân tâm. Nên đây là giả thiện, không phải chân thiện. Đây là đức quá mỏng. Đưa ra một số ví dụ như vậy để sau đó nói với ông, đối với những khuyết điểm của mình, triệt để sửa đổi làm mới thì ông nhất định có thể cầu được.
Nhữ kim ký tri chi.
Ông ngày nay đã chân thật nhìn thấy những sai lầm của mình.
Tương hướng lai bất phát khoa đệ, cập bất sanh tử chi tương, tận tình cải xoát.
Muốn cải tạo vận mệnh thì phải bắt đầu làm từ đâu. Phải từ những tập khí, sai lầm của mình mà hạ thủ. Ông hãy tự nghĩ xem, ông hiện tại nói ra nhiều nguyên nhân như vậy, bản thân ông hiểu rất rõ, ông tại sao lại không thi đỗ công danh, thì hãy đem tất cả những khiếm khuyết, khiến ông không đỗ đạt công danh từ từ mà cải sửa trở lại. Tại sao ông không có con trai, bây giờ ông đã phản tỉnh, ông đều đã biết rõ, vậy ông hãy đem tất cả những sai lầm đó của mình sữa đổi. Tận tình cải xoát, tận tình sửa sai. Sau đó, Thiền Sư dạy cho ông cách tu thiện.
Vụ yếu tích đức.
“Vụ” nghĩa là bắt buộc, nhất thiết phải tích công đức. Quá khứ bạn đã làm ra những sự việc tổn đức quá nhiều, cống cao ngã mạn, thường cậy vào tài trí của mình mà chèn ép kẻ khác, luôn luôn hiếu cường, hiếu thắng, không biết bao dung cho người khác. Đây đều là những việc làm sai lầm, hãy từ đây mà sửa.
Vụ yếu bao hoang.
Cần biết bao dung. “Bao hoang” là chỉ tâm lượng rộng lớn, tâm lượng của ông quá nhỏ hẹp vì vậy cần thiết phải biết bao dung hết thảy. Phật Bồ Tát vĩ đại ở chỗ, tâm lượng của các Ngài vô cùng rộng lớn “tâm bao thái hư, lượng chu sa giới”. Hôm nay, tôi muốn nói với các bạn một vấn đề, tôi muốn nói đến người bản địa Úc châu nơi đây. Họ tự xưng là “chân nhân con người chân thật”, sống tại sa mạc hoang vu, chính phủ làm nhà cho họ, họ không ở, biến nơi đó trở thành kho chứa đồ. Tối đến, ngày ngày họ đều hoan hỷ ngủ trên đại địa hoang vu trên sa mạc. Thật có đạo lý, tâm lượng của họ rộng mở như vậy. Bạn bè nói với tôi, anh ta nói xác thực, người Mông Cổ. Người Tây Tạng, Thanh Hải; người Tân Cương. Họ đều là những tộc người du mục. Họ sống ở hoang mạc, những bài ca của họ rất hào sảng, tâm lượng rất rộng mở. Người hiện nay chúng ta thật đáng thương, sống trong căn hộ như đang ở trong lồng chim vậy, cho nên tâm lượng nhỏ hẹp biết bao. Làm sao có thể so sánh với họ được, cho nên tâm lượng phải mở rộng, người có tâm lượng lớn sẽ có phước đức.
Vụ yếu hòa ái.
Cần phải hòa ái. Liễu Phàm Tiên Sinh thiếu khuyết hòa khí, khiếm khuyết ái tâm, cho nên nhất định phải tu dưỡng hòa ái.
Vụ yếu tích tinh thần.
Thích uống rượu, thích thức đêm, đây đều là không biết yêu qúy bản thân, không biết thương tiếc thân thể của chính mình. Vân Cốc Thiền Sư đưa ra những trọng điểm như vậy để giúp ông cải đổi tập khí, chân thật nhận ra vấn đề mà tu học, tu thiện tích đức.
Tùng tiền chủng chủng, thí như tích nhật tử.
Trước đây đã lỡ sai lầm như vậy, bây giờ cũng không nên nghĩ đến nó nữa.
Tùng hậu chủng chủng, thí như kim nhất sanh, thử nghĩa lý tái sinh chi thân dã.
Câu nói này rất hay, nếu người có thể sửa sai làm mới thì có thể vượt thoát số mệnh, số mệnh không thể trói buộc họ. Trong nhà Phật, Phật thường khuyên chúng đệ tử phải phát nguyện, trong nhà Phật phát nguyện cũng như ở thế gian gọi là lập chí. Tuy nhiên, Phật dạy người phát nguyện là vì để phục vụ chúng sanh. Câu này có nghĩa, bạn phải có đạo đức, có học vấn, có năng lực thì bạn mới có thể vì xã hội, vì chúng sanh mà phuc vụ. Vì vậy, sau khi phát tâm, bạn phải tu dưỡng những điều kiện đó. Tu dưỡng phẩm đức, bạn nhất định phải đem phiền não, tập khí của mình đoạn hết. Thành tựu học vấn, thành tựu đức hạnh, bạn nhất định phải tu thiện, tích công lũy đức, bạn mới có năng lực thực hiện nguyện vọng của mình. Tôi muốn giúp đỡ xã hội, tôi muốn giúp đỡ cho những khổ nạn chúng sanh. Nếu như bản thân không có đủ những điều kiện đó, nguyện của bạn đã phát ra cũng chỉ là nguyện suông, vĩnh viễn chỉ là hư nguyện không thể thực hiện được, là nguyện giả, không phải thật. Nếu bạn phát nguyện giả, đó là bạn có tội, đó là tội gì? Tội khi dối Phật, Bồ tát. Tội lừa gạt chúng sanh. Cho nên phát nguyện hư giả thì sẽ có tội, không có công đức.
Chúng đệ tử nhà Phật, nguyện thông thường nhất là “tứ hoằng thệ nguyện”. “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, “độ” dùng từ hiện tại mà nói chính là cứu giúp, là tương trợ. Chúng sanh vô lượng vô biên, chúng ta phải phát tâm đi giúp đỡ họ, đi tương trợ họ, giúp đỡ họ lìa khổ được vui, giúp đỡ họ phá mê khai ngộ, bản thân chúng ta phải có năng lực mới được. Phía sau tiếp theo có ba điều kiện. Điều thứ nhất là đoạn phiền não, điều thứ hai là học pháp môn. Đoạn phiền não thành tựu đức hạnh cho bản thân, học pháp môn thành tựu học vấn cho bản thân. Sau đó thành Phật đạo, viên mãn công đức cho bản thân. Nguỵện này của bạn mới là chân thật, không phải là hư giả.
Nếu như nguyện của bạn rất dũng mãnh, rất lớn lao, siêu việt được nghiệp lực, thì nguyện của bạn trong nhà Phật thường nói là “thừa nguyện tái lai”. Vận mệnh của bạn sẽ chuyển biến 180 độ, nếu nguyện lực lớn hơn nghiệp lực thì đã thành công rồi.
Hôm nay chúng ta chỉ giảng đến đây thôi.
A DI ĐÀ PHẬT.
Discussion about this post