CHƯƠNG BỐN
Hôm qua tôi đã giảng đến chỗ Vân Cốc Thiền Sư dạy cho Liễu Phàm Tiên Sinh cách cải sửa làm mới. Đây là nói nghĩa lý chi thân vậy, bây giờ chúng ta xem tiếp.
Phù, huyết nhục chi thân, thượng nhiên hữu số, nghĩa lý chi thân, há bất năng cách thiên.
Phàm phu sống bằng xương thịt lẽ dĩ nhiên bị lệ thuộc vào số mạng. Nhưng con người sống bằng nghĩa và lý không lẽ không cảm động được Trời để thay đổi số mạng hay sao?
“Huyết nhục chi thân”, là chỉ thân chúng ta hiện tại. Cái thân thể này bởi vì không có cách gì li khai khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Cho nên đều bị chi phối bởi số mạng, có thể dùng thuật số để suy đoán cát hung họa phước của một đời. Nếu bạn muốn vượt thoát số mạng, thì bạn phải chính từ trên tâm tánh của mình mà chuyển đổi. Đem hành vi, quan niệm sai trái của mình cải chính trở lại, cùng với nghĩa lý tương ưng. Đây chính là “đạo nghĩa chi thân”, là nguyện lực được nói đến trong Phật Pháp. Thân máu thịt là nghiệp lực, do nghiệp lực biến hiện ra. Nếu như nguyện lực của bạn lớn hơn nghiệp lực thì trong nhà Phật gọi là thừa nguyện tái lai. Ở chỗ này chúng ta cần phải hiểu rõ, thân máu thịt thì không rời khỏi tự tư tự lợi, còn thân đạo nghĩa thì chí công vô tư, không vì lợi ích của bản thân mà khởi vọng tưởng. Sinh ra ở Thế Giới này, thân thể chúng ta là công cụ để tạo phước phục vụ cho xã hội, cho nhân dân, cho chúng sanh, hoàn toàn thoát khỏi nghiệp lực của bản thân. Cái thân như vậy thì gọi là thân nghĩa lý, được gọi là thừa nguyện tái lai. Chúng sanh có phước thì cái thân này thường trụ ở thế gian. Chúng sanh không có phước thì thân này tự nhiên xả ly. Câu này có nghĩa, trong nhà Phật thường nói là liễu sanh tử, thoát tam giới, đây là ý nghĩa như vậy. Phía sau, Vân Cốc Thiền Sư liền dẫn cổ thư để dẫn chứng.
Thái Giáp viết: thiên tác nghiệp, do khả vi .
Chương Thái Giáp trong Kinh Thư có nói : Chúng ta có thể tránh khỏi tai hoạ do Trời đã đặt.
Đây là giả thiết, đây là tai nạn của thiên nhiên, “do khả vi” là có thể tránh miễn được. Ngày nay chúng ta nói đến tai nạn do thiên nhiên tạo ra, là có thể tránh miễn được, có thể đẩy lui được, đạo lý ở đây rất sâu.
Tự tác nghiệt, bất khả hoạt.
Tự mình tạo nghiệp thì không thể sống. Ở đây là nói không thể tránh miễn, không thể đẩy lùi. Ý nghĩa của câu nói này rất sâu, tại sao nói tai nạn tự nhiên thì có thể tránh miễn được? Hiện tại, người hiểu được đạo lý này, ngày càng không còn nhiều nữa. Thánh Nhân nói với chúng ta, Phật Bồ tát ở trên Kinh Điển cũng thường nói: “y báo tùy theo chánh báo chuyển”. Y báo chính là nói hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh tự nhiên là tùy theo tâm tánh chúng ta mà chuyển biến. Nếu như tâm tánh của con người trong xã hội đều là thiện lương, thuần phát thì hoàn cảnh sống liền chuyển biến tốt, cái gọi là phong điều vũ thuận, quốc thái dân an. Không phải chỉ có tai nạn nhân tạo mới là do con người tạo ra. Ngay cả thảm họa tự nhiên cũng là do con người tạo ra. Trong Phật Pháp còn nói đến cộng nghiệp và biệt nghiệp. Cộng nghiệp là do mọi người cùng gây tạo, biến thành tai họa tự nhiên. Còn tạo tác của một người thì liền biến thành cát hung họa phước của chính người đó. Cho nên cá nhân mình tạo nghiệp thì không cách gì tránh miễn được. Nếu như nghiệp chướng là do đại chúng xã hội cộng chung lại tạo ra thì tai họa của nó có thể tránh miễn, có thể đẩy lùi được. Đây là chân lý, là chân tướng sự thật. Sau đó, ông dẫn hai câu nói trong Kinh Thi:
Thi vân: vĩnh ngôn phối mệnh, tự cầu đa phước.
Kinh Thi cũng có nói : “Việc mình làm phải phù hợp với ý Trời mới tạo được nhiều phước cho mình”.
Hai câu nói này, “vĩnh ngôn” là chỉ thường hay nói, Cổ Thánh Tiên Hiền thường nói; “phối mệnh” là nói thường hợp với ý Trời, tức lòng người hợp với ý Trời. Trời là gì, đến cuối cùng thì Trời ở đâu? Trời không có hình tướng cụ thể, đây chỉ là một hình tượng biểu trưng, cái gọi là “Trời có đức hiếu sinh”. Thiên tâm là ái tâm yêu thương, tâm yêu thương một cách vô tư. Thiên tâm là tâm yêu thương công bằng, tâm yêu thương bình đẳng. Nếu như bản thân chúng ta có thể tu dưỡng, tâm nguyện chúng ta có thể nâng cao lên đại công vô tư, bình đẳng đối đãi với tất cả người, tất cả sự, tất cả vật. Đây chính là ý nghĩa của “vĩnh ngôn phối mệnh”. Đương nhiên, phước tại trong đó cho nên không cần cầu, phước cũng hiện tiền. Cái ý nghĩa này chư vị hãy tỉ mỉ mà suy xét.
Phía sau, Vân Cốc Thiền Sư nói:
Khổng Tiên Sinh toán nhữ bất đăng khoa đệ, bất sanh tử giả, thử thiên tác chi nghiệt, do khả đắc nhi vi dã.
Khổng Tiên Sinh đoán ngươi không đậu Tiến Sĩ, không con nối dõi, tuy đó là số Trời đã định nhưng vẫn có thể không tuân theo.
Nghiệp do Trời gây chính là do ngươi quá khứ tạo tác, cái nghiệp bất thiện do ngươi tạo, có thể khiến ngươi đời nay không có công danh, không có con trai. Đây đều là do ngươi trong đời quá khứ đã tạo ra, nhưng có thể tránh miễn, có thể đẩy lùi. Làm sao để đẩy lùi?
Nhữ kim khoách sung đức tính.
Là nói Liễu Phàm Tiên Sinh cần phải sửa sai tự làm mới.
Lực hành thiện sự, đa tích âm đức.
Hết lòng làm thiện, tích trữ âm đức.
Cái gì gọi là “âm đức”. Làm việc tốt mà không để người khác biết, đây gọi là âm đức. Âm đức, phước báu được dày hơn. Làm một chút việc tốt mà mọi người đều biết, giống như hiện tại, được phương tiện thông tin đại chúng đưa tin. Cơ quan đoàn thể biểu dương, tán thán. Được giới thiệu trước toàn thể đại chúng. Đây là phước, phước của bạn đã bị tiêu hết, thật đáng tiếc. Cho nên người chân chánh làm việc thiện, không muốn người khác biết. Nếu như làm việc thiện mà nhất định phải có phương tiện thông tin đại chúng giới thiệu, phải được báo chí biết đến, đây không phải làm thiện chân thật. Tâm của bạn vẫn là không rời khỏi danh văn lợi dưỡng, bạn không phải là chân tâm, việc thiện mà bạn làm là giả thiện, là ngụy thiện, không phải là chân thiện. Chân thiện, hà tất phải để người khác biết. Nếu phương tiện thông tin đại chúng tìm đến, bạn cần phải tận lực tránh, đây mới là tốt. Thời xưa, người chân thật có đại đức đại năng, thường che giấu tài năng, ẩn cư trong núi sâu, không ai biết đến, vì vậy đức của họ càng ngày càng tích được dày. Khi nào cơ duyên thành thục, bị người khác phát hiện, họ mới có thể vì nước vì dân mà kiến công lập nghiệp.
Ở đây ẩn chứa rất nhiều rất nhiều kiến thức, chúng ta cần phải tư duy một cách sâu sắc, chúng ta cần phải học tập.
Thử tự kỷ sở tác chi phúc dã, an đắc nhi bất thụ hưởng hồ.
Phước mà mình tạo ra, đương nhiên bản thân có thể hưởng.
Tiếp theo, Đại Sư có dẫn “Kinh Dịch” để nói:
Dịch vi quân tử mưu, xu cát tị hung.
Mục đích của Kinh Dịch là giúp cho con người biết tìm phước tránh hoạ.
Ông dẫn ra hai câu này là muốn tăng thêm tín tâm cho Liễu Phàm Tiên Sinh.
Nhược ngôn thiên mệnh hữu thường, cát hà khả xu, hung hà khả tị.
Nếu nói số mạng không đổi thì làm sao mà tìm phước tránh hoạ được .
Câu nói này rất hay. Nếu như nói vận mệnh là nhất định, không thể cải đổi, thì câu nói này trong “Kinh Dịch” giảng không được thông. Có nghĩa là, hai câu nói này trong “Kinh Dịch” cho chúng ta biết, vận mệnh vốn rất sống động, không có nhất định. Chúng ta mỗi ngày khởi tâm động niệm, khởi thiện niệm thì tăng phước, phước tăng lên một phần, khởi niệm ác thì phước giảm đi một phần. Mỗi ngày chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác luôn có gia giảm tăng bớt, ngày ngày đều có gia giảm tăng bớt. Tại sao vận mệnh của người thế gian đều bị đoán định. Bởi vì mức độ gia giảm tăng bớt của anh ta không lớn, không ly khai quá nhiều so với vận mệnh của chính mình, cho nên đoán được rất chuẩn. Nếu như mức độ gia giảm tăng bớt rất lớn, thì vận mệnh được đoán định liền không chuẩn nữa. Phía trước đã nói, người đại thiện thì mạng số không câu thúc được, người đại ác thì số mạng cũng thay đổi. Chính bởi mức độ gia giảm tăng bớt của anh ta quá lớn. Anh có đại thiện, họa liền biến thành phước. Anh làm đại ác, phước biến thành họa, đạo lý ở chỗ này.
Khai chương đệ nhất nghĩa, tiện thuyết, tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, nhữ tín đắc cập phủ.
Ngay chương đầu của Kinh Dịch đã nói : “Gia đình làm thiện, ắt dư phước cho con cháu” Ngươi có tin những điều đó không.
Những sách này, Liễu Phàm Tiên Sinh ngày thường đọc được rất thuộc. Đọc thuộc chính là muốn nói, ông làm sao không hiểu được ý nghĩa của nó chứ, có điều ông hiểu không đủ sâu mà thôi. Đại ý là nói, Liễu Phàm Tiên Sinh đọc nhiều sách của Cổ Thánh Tiên Hiền như vậy, bản thân ông lại không có cách nào áp dụng vào trong cuộc sống. Không cách nào chân thật dùng vào trong sinh hoạt, công việc, xử sự, đối người, tiếp vật. Cho nên vận mệnh của ông ngay đến một tơ hào cũng không cải đổi được.
Vân Cốc Thiền Sư vừa khai thị, Liễu Phàm Tiên Sinh liền hiểu rõ, ông nói:
Dư tín kỳ ngôn, bái nhi thụ giáo.
Con tin lời nói này, con xin nhận lãnh. Lời nói của Vân Cốc Thiền Sư khiến Liễu Phàm Tiên Sinh tỉnh ngộ. Vận mệnh xác thực là do ta tạo, ta đương nhiên có thể cải đổi, nhất định phải hiểu được tự cầu đa phước. Chúng tôi học Phật, có nhiều người hỏi tôi. Họ nói, Thưa Pháp Sư, tại sao Ngài học Phật. Tôi trả lời rất đơn giản, mục đích học Phật của tôi rất đơn thuần, nhằm nâng cao cảnh giới của mình, đây là từ trên quả báo mà nói. Còn từ trên nhân mà nói, là tôi muốn nâng cao đức hạnh của bản thân. Tích công lũy đức là tu nhân, nhân tốt, quả đương nhiên sẽ thù thắng. Khi nghiệp nhân quả báo đến, bản thân bạn có thể tỉnh táo quán sát được, bạn sẽ cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nhà Phật thường nói là “thường sanh hoan hỷ tâm”. Một đời này luôn sống được rất hoan hỷ, điều này không phải là quá vui thích ư.
Trong tâm không có phiền muộn, không khắc khoải, không vọng tưởng, không chấp trước, không phiền não, đây gọi là đại tự tại. Trong Kinh Luận thường nói “thường sanh hoan hỷ tâm”, một đời thường sống trong Thế Giới cảm ơn, như vậy thật hạnh phúc biết bao.
Tôi là như vậy mà học Phật. Kỳ thật, đây là lúc nhỏ Lão Sư đã dạy tôi. Trước khi học Phật, tôi rất yêu thích triết học, thầy của tôi là Tiên Sinh Phương Đông Mỹ. Ông nói với tôi, Phật học là tinh hoa của triết học, là đỉnh cao nhất trong triết học, “học Phật là sự hưởng thụ tối cao nhất của đời người”. Tôi bị câu nói này của ông làm chấn động, cho nên mới để tâm học tập. Tôi xuất gia, sau khi xuống tóc, tôi liền đến thăm Thầy, ông vô cùng hoan hỷ. Ông nói, con đường ông chọn rất đúng, tôi nói với ông như vậy nhưng không nghĩ ông làm thật.
Cho nên xác thực là được sự chỉ dẫn của Thầy, tôi cũng giống
Tiên Sinh Viên Liễu Phàm, dư tín kỳ ngôn, bái nhi thụ giáo. Tiên
Sinh Phương Đông Mỹ đem Phật Giáo giới thiệu với tôi. Đại Sư
Chương Gia đặt nền tảng cho tôi. Cư sĩ Lý Bỉnh Nam dùng thời gian 10 năm mà dạy bảo tôi. Một đời được thọ dụng, đạt được khoái lạc, đạt được tự tại.
Liễu Phàm Tiên Sinh hiểu rõ rồi, giác ngộ rồi, phía sau là chân thật làm.
Nhân tương vãng nhật chi tội.
Quá khứ đã tạo ra tội ác quá nhiều, sai lầm quá nhiều.
Phật tiền tận tình phát lộ.
“Phát lộ” một tơ hào che giấu cũng không có, hoàn toàn nói hết ra.
Vi sơ nhất thông.
“Sơ” là văn chương, chính là bản thân hạ quyết tâm muốn sửa đổi tự làm mới, nên đã viết một bài văn sám hối, cầu Phật, Bồ Tát chứng minh, dụng ý là ở tại điểm này.
Tiên cầu đăng khoa.
Trước tiên cầu đỗ đạt khoa cử. Trong mạng của ông không có công danh, cho nên trước tiên là cầu “đăng khoa”, cầu thi đỗ Cử nhân. Trong mệnh của ông chỉ thi đỗ Tú tài, Tú tài cao nhất cũng chỉ đến cống sinh, cho nên ông không có khoa đệ, dùng từ hiện đại mà nói, ông không có học vị.
Thệ hành thiện sự tam thiên điều, dĩ báo thiên địa tổ tông chi đức.
Nguyện làm 3000 việc tốt để báo đền ân đức của tổ tông, Trời đất.
Chân thật bắt đầu đoạn ác tu thiện, ông phát ra đại tâm như vậy, rất khó có được. Vân Cốc Thiền Sư xem thấy, vô cùng hoan hỷ, học trò này có thể dạy. Lúc này Viên Liễu Phàm Tiên Sinh đã 35 tuổi, có thể chân chánh hồi đầu, đoạn ác hướng thiện. Vào thời nhà Minh, “công quá cách” rất phổ biến. Chúng tôi từ trên lịch sử xem thấy, vĩ nhân có thành tựu rất nhiều, đều là đã từng dùng phương pháp công quá cách, để kiểm điểm lỗi lầm của mình.
Vân Cốc xuất công quá cách thị dư, linh sở hành chi sự, toại nhật đăng ký, thiện tắc ký số, ác tắc thoái trừ, thả giáo trì Chuẩn Đề chú, dĩ kỳ tất nghiệm.
Vân Cốc Thiền Sư đưa cho ta cuốn sổ công quá cách, bảo ta ghi hết những điều đã làm trong ngày. Thiện thì được điểm, ác thì trừ điểm. Ngoài ra còn dạy ta trì Chú Chuẩn Đề và chờ ngày ứng nghiệm.
Liễu Phàm Tiên Sinh, ông chân thật là một phàm phu, là người sơ học. Hơn nữa, căn tánh của ông không phải là thượng căn lợi trí, có thể nói ông là người căn tánh trung hạ, cho nên Vân Cốc Thiền Sư mới dùng “công quá cách” để giúp đỡ ông. Công quá cách, hiện tại tại ở Đài Loan và Hương Cảng cũng rất lưu thông, nên có thể tìm thấy. Chúng tôi trong quá khứ cũng đã từng in ấn rất nhiều. Mỗi ngày đều đánh dấu, việc tốt đã làm trong ngày tôi tự mình đánh dấu. Mỗi ngày sai sót đã tạo, phản tỉnh lỗi sai, sai cũng đánh dấu vào. So sánh thiện ác, tôi ngày hôm nay đến cuối cùng là thiện nhiều hay ác nhiều. Thời gian đầu tôi làm, nhất định là thiện ác lẫn lộn, có khả năng là ác nhiều hơn thiện, cảnh giác của bản thân liền tăng cao. Ngày ngày đều chân thật nỗ lực sửa sai, hi vọng đến một ngày, một khi mở công quá cách ra đều là thuần thiện không ác, thì bạn đã thành công rồi.
Đây là Vân Cốc Thiền Sư dạy ông từ trên sự mà sửa, tuy đây không phải là phương pháp cao minh, nhưng đối với người bình thường, phương pháp này rất có hiệu quả. Thiền Sư còn dạy cho ông Chú Chuẩn Đề. Trong nhà Phật, tham Thiền, trì Chú, niệm Phật. Phương pháp tuy không đồng, nhưng mục đích, hiệu quả lại hoàn toàn giống nhau, đều để điều phục tâm. Người bình thường không thể không có vọng tưởng. Chỉ có Phật, Bồ Tát, người tu hành đắc đạo mới không có vọng niệm. Vọng niệm đối với chúng ta có hại vô cùng lớn, chúng ta phải biết. Vọng niệm không chỉ phá hoại thanh tịnh tâm của chúng ta, mà còn có ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe thân thể chúng ta. Chúng tôi xem thấy lúc Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, một ngày ăn một bữa, nửa ngày ăn một lần, hơn nữa ăn rất đơn giản, rất ít. Người hiện tại chúng ta nghĩ “sao đủ dinh dưỡng”? Chúng ta là không rõ đạo lý, chân chánh đạo lý rõ ràng, hoát nhiên đại ngộ, nguyên lai dinh dưỡng là bổ sung năng lượng cho thân thể. Thân thể giống như một bộ máy, cái bộ máy này vận động suốt 24 giờ đồng hồ, ngay cả lúc ngủ cũng không ngừng nghỉ. Tim mạch luôn đập, máu huyết tuần hoàn. Cho nên cần phải có năng lượng. Ăn uống là để bổ sung năng lượng, giống như đổ dầu cho xe chạy. Tuy nhiên đối với xe, chúng ta đều biết, có loại xe hao xăng, có loại xe tiết kiệm xăng. Thân thể chúng ta cũng như vậy, thân thể đối với việc tiêu năng lượng, có loại hao nhiều năng lượng, có loại ít tốn năng lượng. Năng lượng đến cuối cùng là tiêu tốn ở đâu. Hiện tại, chúng tôi chân thật hiểu rõ, 95% là tiêu tốn trên vọng tưởng. Điều này cần phải minh bạch, tại sao người tu hành có thể một ngày ăn một bữa? Vì tâm họ thanh tịnh, ít vọng tưởng, cho nên họ tiêu tốn năng lượng ít, thân thể khỏe mạnh. Phàm phu nhiều vọng tưởng, tạp niệm nhiều, mỗi ngày bổ sung ba lần cũng không đủ, vẫn còn phải ăn khuya, ăn điểm tâm, một ngày từ sáng đến tối luôn là phải bổ sung, anh ta tiêu tốn rất nhiều. Tiêu tốn quá nhiều như vậy, thân thể nhất định cũng không tốt. Cho nên nếu bạn muốn bảo trì thân thể khỏe mạnh, phải giảm bớt vọng tưởng. Vọng tưởng giảm rồi, ăn uống của bạn cũng tự nhiên giảm xuống. Thân thể khỏe mạnh nhất là không cần phải ăn uống, tại sao vậy. Ăn uống có ít hơn, cũng không có cách gì hoàn toàn làm được đến không có ô nhiễm. Không ăn uống thì nhất định phải không có ô nhiễm, thân thể của bạn mới thật sự khỏe mạnh.
Cho nên ăn uống quá nhiều không phải là điều tốt, ăn quá nhiều, chất dơ không thể bài tiết ra hết, mức độ ô nhiễm của các cơ quan trên thân thể bạn so với người khác đặc biệt nhiều. Cổ nhân nói “bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”, câu nói này một chút cũng không sai. Dạy người trì Chú, trì Chú tức tu thanh tịnh tâm. Đối với người có tạp niệm, bạn hãy đem niệm đó tập trung vào câu Chú, thì tạp niệm liền mất, dùng một ý niệm để thay cho tất cả vọng niệm, đạo lý là ở chỗ này. Hiệu quả vô cùng rõ rệt. Cho nên bạn có thể dùng cách tham cứu, dùng trì Chú, hay niệm Phật để làm đều được. Phương pháp rất nhiều rất nhiều, nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp là phương pháp, môn là con đường. Phương pháp, con đường, quá nhiều quá nhiều. Bạn có thể chọn lựa một môn, hai môn. Giúp bạn nhiếp tâm, giúp bạn tiêu trừ vọng tưởng. Tâm địa thanh tịnh, trí huệ liền hiện tiền, chân tâm hiển hiện. Đây là một loại phương pháp và cách thức tu hành. Vân Cốc Thiền Sư:
Ngữ dư viết: phù lục gia hữu vân, bất hội thư phù, bị quỷ thần tiếu.
Thiền Sư dạy ta rằng : Những người chuyên vẽ bùa chú cho rằng : “Vẽ bùa không đúng cách sẽ bị quỷ Thần chê.
Những chuyên gia vẽ bùa chú thường nói, Anh không biết vẽ thì sẽ bị quỷ Thần cười chê. Quỷ Thần không chỉ là chê cười bạn, có đôi lúc còn khiến bạn chịu không nổi. Ở đây có bí quyết.
Thử hữu bí truyền, chỉ thị bất động niệm dã.
Bí quyết vẽ bùa là vẽ trong lúc không động niệm, vẽ bùa, niệm chú, niệm Phật. Xác thực có cùng một mục đích. Đây là nói, hình thức phương pháp không giống nhau, nhưng nguyên lý, mục đích của chúng thì hoàn toàn tương đồng, đều là cần phải dùng chân tâm, tức là một vọng niệm cũng không có, như vậy bùa mới linh.
Chấp bút thư phù.
Chúng ta cầm bút để vẽ bùa.
Tiên bả vạn duyên phóng hạ, nhất trần bất khởi.
Bạn phải đem tất cả vọng niệm thảy đều buông xuống hết, một vọng niệm cũng không sanh.
Tùng thử niệm đầu bất động xử, hạ nhất điểm, vị chi hỗn độn khai cơ, do thử nhi nhất bút huy thành.
Rồi từ chỗ niệm chưa động chấm xuống, chấm đó gọi là “hỗn độn khai cơ”. Rồi vẽ một hơi liên tục đến hết.
Thư phù, đây là nói bùa có linh hay không, bạn hãy xem người vẽ bùa. Sở dĩ họ bình thường phải luyện tập, luyện rất thành thục. Chúng tôi từ nhỏ, lúc còn là học sinh cũng rất thích vẽ, mỗi ngày đều luyện, tuy nhiên lúc đó chúng tôi không hiểu được nguyên lý này. Nếu như trong lúc vẽ mà còn khởi lên vọng niệm, thì bùa vẽ không linh. Một đạo bùa từ khi hạ bút cho đến khi vẽ xong không có vọng niệm, tâm hoàn toàn thanh tịnh, đạo bùa đó mới linh. Do đây có thể biết, trì chú cũng phải như vậy, khi trì chú không được xen tạp vọng niệm. Hễ một vọng niệm xen tạp thì chú này không linh. Do đây có thể biết, trì chú thật không dễ dàng, chú càng dài càng khó niệm. Chú càng dài thì trong thời gian dài không dễ dàng không khởi tạp niệm. Cho nên nhà Phật thường nói, tụng Kinh không bằng trì Chú, trì Chú không bằng niệm Phật. Tại sao vậy, Kinh dài hơn chú nên không khởi vọng rất khó, chú cũng là tương đối dài, trong khi trì không khởi vọng tưởng cũng không dễ dàng. Phật hiệu thì ngắn, bốn chữ “A DI ĐÀ PHẬT”. Trong khi niệm bốn chữ “A DI ĐÀ PHẬT” này không xen tạp một vọng niệm thì câu phật hiệu này linh. Một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng, thì phật hiệu không linh. Cho nên các phương pháp này đều là giúp nhiếp tâm, đều giúp chúng ta đạt được thanh tịnh tâm. Thanh tịnh tâm là chân tâm, trong tâm có vọng tưởng thì cái tâm này gọi là vọng tâm. Vọng tâm thì có sanh diệt, chân tâm thì không sanh không diệt, trong chân tâm không có vọng niệm, cho nên nó không sanh diệt. Làm cách nào để có thể đem sanh diệt đoạn hết, khôi phục đến không sanh không diệt. Đây là mục tiêu cao nhất trong công phu tu học của nhà Phật, làm đến không sanh không diệt. Đạo lý này, rất khó có được là Vân Cốc Thiền Sư đã vì chúng ta mà nói ra. Phía sau ông nói:
Phàm kì thiên lập mệnh, đô yếu tùng vô tư vô lự xử cảm cách.
Phàm là cầu Trời lập mạng, đều cảm ứng trong lúc không suy nghĩ vọng tưởng.
“Cảm cách” là nói cầu cảm ứng. Từ trên nội tâm mà cầu, từ trên Trời cao mà cầu, đều phải dùng tâm chân thành, cái gọi là “thành tắc linh, bất thành vô vật”. Lại nói:
Mạnh tử luận lập mệnh chi học.
Mạnh tử nói về số mạng rằng. Bàn về lập mệnh, sớm nhất là do Mạnh Tử nói.
Nhi viết: yểu thọ bất nhị, phù yểu dữ thọ, chí nhị giả dã, đương kì bất động niệm thời, thục vi yểu, thục vi thọ.
Rằng: yểu thọ không hai, về “yểu và thọ”, nếu cho là hai việc khác nhau, thì trong lúc không động niệm, thế nào là yểu. Thế nào là thọ.
Câu nói này của Mạnh tử rất cao minh. “Yểu” là chỉ đoản mệnh. “Thọ” là chỉ trường thọ. Yểu mệnh cùng trường thọ là một chứ không phải hai, câu nói này người bình thường nghe không hiểu. Đoản mạng cùng trường thọ khác nhau quá xa, làm sao có thể nói là một không phải hai. Chúng ta bởi vì nhìn thấy đó là hai, xem thấy khác nhau quá lớn, chúng ta là dùng cái tâm gì để nhìn. Tâm phân biệt, tâm chấp trước, cho nên xem thấy nó là hai. Nếu như tâm bạn không động, trong tâm một niệm cũng không có. Có phân biệt nên mới thấy có hai, có ba. Nếu không có tâm phân biệt thì nào thấy có hai, có ba chứ. Người thế nào mới không phân biệt. Thánh Nhân không có tâm phân biệt, Phật không có tâm phân biệt, Bồ Tát không có tâm phân biệt. Phàm phu có tâm phân biệt, cho nên mới đem tất cả thế gian pháp biến thành đối lập. Đối lập giữa lớn và nhỏ, giữa dài và ngắn, giữa thiện và ác, giữa chân và vọng, hoàn toàn đều đem biến thành đối lập. Cái đối lập này chính là luận tương đối mà khoa học gia nói đến. Sống tại thế gian tương đối, đây là chỉ thế gian hư vọng, là “mộng huyễn bào ảnh” được nói đến trên Kinh Kim Cang. Đây không phải là chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Chân tướng của vũ trụ nhân sinh gọi là “nhất chân”, đây chính là nói, trong Thế Giới đó quyết định không có tương đối, đây mới là Thế Giới chân thật. Có tương đối thì không phải là thật. Trong lục đạo là tương đối, trong thập pháp giới vẫn là tương đối, đến nhất chân pháp giới thì tương đối không còn nữa. Chúng tôi nói tương đối không còn, vậy có phải sẽ có tuyệt đối hay không. Tuyệt đối cũng không có. Tuyệt đối và tương đối, hai cái hỗ tương tạo nên, tương đối không có, tuyệt đối cũng không có. Cảnh giới này trong Kinh Phật thường nói là “bất khả tư nghị”. Tư là tư duy, bạn không thể nghĩ, một khi nghĩ thì bạn đã sai rồi. “Nghị” là nghị luận; nói cũng không thể nói, nói thì liền sai rồi, “Mở miệng liền sai, động niệm đều trái”. Đó mới là pháp giới nhất chân chân thật, mới là chân bình đẳng. Câu nói đó của Mạnh Tử thật không đơn giản. Nếu không khế nhập cảnh giới, ông sao có thể nói ra được. Cho nên tuy Mạnh Tử không tiếp xúc với Phật Pháp, nhưng nếu dùng tiêu chuẩn của nhà Phật để xem, thì Khổng Tử Mạnh Tử đều là Đại Bồ Tát, không phải người bình thường. Ngôn luận, quán sát của họ, trên Phật Pháp mà nói, cảnh giới từ Thất Địa Bồ Tát của Đại Thừa Viên Giáo trở lên.
Tế phân chi. Đây là nói suy nghĩ rộng ra.
Phong khiểm bất nhị, nhiên hậu khả lập bần phú chi mệnh.
Nhìn giàu nghèo không hai rồi mới lập mệnh giàu nghèo “Phong” là bội thu, người nông phu năm nay được mùa bội thu, thu hoạch được tốt. “Khiểm” là nói thành quả thu hoạch không tốt.
Thu được nhiều, gọi là phong phú, năm nay có thể sống được sung túc. Năm nay bị khiếm thu, mỗi ngày phải sống rất nghèo khó. Nếu như bạn có thể hiểu được “phong khiểm bất nhị”, đó chính là giàu nghèo không hai, bạn mới có thể lập mệnh giàu nghèo.
Cùng thông bất nhị, nhiên hậu khả lập quý tiện chi mệnh.
Nhìn cùng và thông là không hai có thể lập mệnh quý tiện.
“Cùng” là rơi vào cảnh khốn cùng, làm cách gì cũng không thể thoát khỏi cảnh khốn khổ, không thể thành tựu. “Thông” là thông đạt, khi muốn làm việc gì thì trợ duyên rất nhiều, vô cùng thuận lợi. Nếu bạn không hiểu cái đạo lí này, bạn không thể lập mệnh được mệnh quý, tiện. Chúng tôi muốn hỏi thế gian có giàu nghèo hay không. Có. Có quý tiện hay không. Có. Làm sao để lập mệnh. Người nghèo định ở cảnh nghèo, người giàu định ở cảnh giàu, người cao quý định ở cao quý, người hèn kém định ở hèn kém, đây gọi là lập mệnh. Hai bên coi trọng nhau, kính ái nhau, đây là chân chánh biết thiên mệnh. Cho nên thế gian này vĩnh viễn thái bình, xã hội quyết định không thể động loạn. Tại sao, “Tri mệnh”. Đây là học vấn, là học tập chân thật, là học vấn chân thật. Tiếp theo nói:
Yểu thọ bất nhị, nhiên hậu khả lập sanh tử chi mệnh.
Nhìn yểu thọ không hai, sau đó mới có thể lập mệnh yểu thọ.
Sinh tử, cái hiện tượng này đều là ở trong lục đạo luân hồi. Có đáng sợ hay không.Không đáng sợ. Sinh tử vô cùng bình thường, chỉ khi nào bạn đem cái đạo lí này hiểu thật rõ ràng, minh bạch. Bạn có còn tham sống sợ chết hay không. Không sợ. Sống và chết là một sự việc, không phải là hai sự việc. Người thông đạt rồi, đối với việc xả thân hay thọ thân, cũng như việc sanh tử, chẳng khác gì việc chúng ta cởi áo hay thay áo vậy. Chúng ta lấy y phục tỉ dụ với thân thể. Cái áo này mặc lâu rồi đã bị dơ, bị rách rồi, ta tự nhiên đem nó cởi ra. Cởi đi, chính là cái thân này cũng không cần nữa. Lại thay một cái áo khác. Cho nên việc sinh tử, xả thân thọ thân cũng giống như thay áo vậy. Ở đây, chúng ta cần phải chú ý, cái áo chúng ta đổi, càng đổi càng đẹp. Tốt, nếu như càng đổi càng kém, vậy thì không tốt rồi. Nếu như một người tạo ác đa đoan, thân thể này của anh ta xả bỏ, thân thể mà đời sau anh ta có được so với đời này kém hơn. Thân súc sanh, thân ngạ quỷ, thân địa ngục. Những thân này so với chúng ta thật không dễ nhìn. Nếu như một người cả đời hành thiện, hiếu thiện tích đức, sau khi thân thể này của anh ta xả bỏ, đời sau anh ta sanh Thiên, thân của Thiên nhân so với thân của chúng ta thì trang nghiêm hơn nhiều. Anh ta đắc Bồ tát thân, đắc Phật Thân thì lại càng trang nghiêm hơn nữa. Bạn hiểu được cái chân tướng sự thật này, hiểu được đạo lý này, bạn mới chân chánh khẳng định đoạn ác tu thiện. Đoạn ác tu thiện, tuy là lợi ích cho người khác nhưng lợi người mới chân thật là lợi mình, đây là chân lý.
Tổn người quyết định là hại mình, người thế gian thường nói “tổn người lợi mình”, câu nói này không đúng, tổn người quyết định là hại mình. Bạn làm lợi mình chẳng qua chỉ là một chút lợi ích trước mắt, có thể là sau vài chục năm. Hoặc sau khi bạn chết đi, bạn liền biến thành ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Đây chân chánh gọi là hại chính mình, tổn hại thê thảm, đến lúc này bạn hối hận cũng không kịp. Cho nên, việc tổn người nhất định không được làm. Người chân chánh thông minh, minh bạch quyết định sẽ làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh.
Văn nhân là người theo sự nghiệp văn hóa giáo dục, chúng ta ngày nay xem thấy có rất nhiều tác phẩm được xuất bản. Có rất nhiều người gởi thư, gởi tác phẩm cho tôi xem. Tôi trước tiên là xem trang bản quyền, nếu trên trang bản quyền ghi rằng “bản quyền sở hữu, phiên ấn tất cứu” tức có bảo lưu bản quyền, in ấn tất bị truy cứu. Quyển sách này tôi không xem. Tại sao tôi không xem. Tôi nghĩ người này không thể viết được cái gì hay ho cả. Bởi vì tâm anh ta rất tự tư, anh ta không muốn làm lợi ích cho đại chúng. Còn tôi thì không muốn lãng phí thời gian, tinh thần của mình. Cho nên tôi không xem. Nếu phía sau viết “hoan nghênh in ấn, công đức vô lượng”, quyển sách này tôi sẽ tỉ mỉ xem từ đầu đến cuối. Tại sao vậy. Tâm lượng của anh ta lớn, anh ta không có cái niệm tự tư tự lợi. Đây là người tốt, là người thiện, tác phẩm của anh ta nhất định có thể đọc. Cho nên cách tôi đọc cùng với người bình thường không giống nhau. Bản thân tôi, trong những năm gần đây, băng ghi hình và băng ghi âm giảng Kinh số lượng rất nhiều, tính toán tổng số cũng có đến mấy ngàn loại, thư tịch cũng không ít. Tôi hoàn toàn không có bản quyền, hoan nghênh in ấn, hoan nghênh lưu thông. Mọi người nếu có thể lưu thông, in ấn, tôi rất cảm kích. Họ là coi trọng tôi, nếu coi thường tôi, họ tại sao phải tốn nhiều tiền như vậy để làm cái sự việc này. Tôi hà tất phải hạn chế người khác, nếu không thể in ấn, không thể lưu thông thì nguyện vọng giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui của chúng tôi vĩnh viễn không thể đạt được. Cho nên chúng tôi hoàn toàn không có bản quyền, mặt khác lại rất hoan nghênh người khác sao chép, in ấn lưu thông. Cho nên đối với vấn đề sinh tử, thấu suốt rồi, nhìn thấu rồi. Biết được chân tướng sự thực rồi, cho nên ý niệm tham sống sợ chết liền không còn nữa. Bất luận là chết vào lúc nào, phương thức ra sao đều có thể hoan hỷ, vui vẻ. Tại sao.
Vì biết được sau khi xả bỏ thân này, lập tức đổi một thân khác so với thân hiện tại càng tốt hơn, càng thù thắng hơn. Tôi có lòng tin, tôi nắm chắc.
Nhân sinh thế gian, duy tử sinh vi trọng, viết yểu thọ, tắc nhất thiết thuận nghịch giai cai chi hỹ.
Thế gian đều cho sống chết là việc quan trọng, cho nên ở đây chỉ đề cập vấn đề “thọ yểu” mà thôi. Hiểu được “yểu thọ không hai” thì sẽ hiểu hết thảy mọi việc thuận nghịch trên đời đều như vậy.
“Cai” là bao quát, chỉ cần đem điều này thấu suốt, trong tất cả các cảnh giới, bạn đều được tự tại. Tất cả thuận nghịch. Thuận cảnh nghịch cảnh. Hoàn cảnh nhân sự, thiện duyên ác duyên, đều bao gồm hết trong đó. Bao gồm trong đó là cái gì. Bất nhị, chúng ta cần phải nhập vào cảnh giới này. Chúng ta trong một đời, không tránh khỏi sẽ gặp được những người đối xử tốt với chúng ta, chiếu cố chúng ta, đây là ân huệ. Nhưng cũng có người bất mãn, ác ý hủy báng, hãm hại, vũ nhục chúng ta. Chúng ta dùng cái tâm gì để đối đãi với họ. Dùng tâm cảm ơn để đối đãi. Người đối tốt với ta, ta cảm kích họ, vì họ giúp đỡ ta rất nhiều. Người không tốt với ta, người hủy báng ta, người vũ nhục ta, người hãm hại ta. Ta cũng phải vô cùng cảm kích họ. Cảm kích họ cái gì. Tiêu nghiệp chướng cho ta, thành tựu đức hạnh cho ta. Cũng chính là nói, họ dùng cách đó đối với ta để xem xem tâm của ta có bình tĩnh hay không, ta có còn tâm sân khuể hay không. Nếu như ta vẫn còn một niệm sân khuể, vẫn còn một niệm phục thù, thì ta là phàm phu, công phu của ta không tiến bộ. Anh ấy như vậy đối với ta, cũng như ra một bài khảo thí, ta đã đậu rồi. Ta đối với anh ấy không có ác ý, không có ý niệm phục thù; không chỉ không có niệm báo thù mà ta còn cảm kích anh ấy.
Cái niệm Phật đường nhỏ này, chư vị oán thân trái chủ là người đối với chúng ta không tốt, nhưng tôi đã lập bài vị cúng dường cho họ, ngày ngày tụng Kinh niệm Phật hồi hướng cho họ. “Bạn hãm hại tôi như vậy, tôi vẫn cầu chúc cho bạn, tôi xem bạn cũng như chư Phật Bồ tát không khác. Bạn tại sao lại đối với tôi không tốt. Là do bạn không đủ hiểu tôi. Cho nên tất cả đều xuất phát từ sự hiểu lầm, hà tất phải so đo chứ. So đo, đó là lỗi của tôi. Tôi không so đo, tôi cảm ân, tôi kính trọng. Nếu khi nào bạn gặp khó khăn mà cần tôi giúp đỡ, tôi sẽ toàn tâm toàn lực giúp đỡ bạn.” Đây là đạo lí làm người, cần phải thẩm thấu “bất nhị pháp môn”. Bất nhị pháp môn là trong nhà Phật nói. Chúng ta từ chỗ này mà xem, từ những lời nói của Mạnh tử mà xem thấy, Nho gia cũng khế nhập bất nhị pháp môn. Nho Phật là một, không phải hai. Sau này chúng ta sẽ tỉ mỉ quan sát, Thế Giới có rất nhiều sách Tông Giáo, trong cái nhìn của tôi đều là bất nhị pháp môn. Cho nên khi tôi học Phật, tôi vào giáo đường của các tôn giáo đó, tôi lễ bái, tôi cung kính, nhiều người cảm thấy rất kỳ quái. Tôi nói một điểm cũng không lạ, tất cả thần đều là một không phải hai. Tốt, hôm nay chúng ta giảng đến đây.
A DI ĐÀ PHẬT.
Liễu Phàm Tứ Huấn
Chuyển ngữ: Đệ Tử Như Hòa
Chủ giảng: Lão HT. Tịnh Không
Discussion about this post