của Tỳ kheo ni giới. Đại thể ấy có 2 phần: phần 1 là giới luật, phần 2 là oai
nghi. Phần 1 là những giới điều cấm tội lỗi thật sự, phần 2 là những giới điều
cấm cử động bất xứng. Tức như loại khí có thể nói là giới luật cả, loại học
pháp có thể nói là oai nghi cả. Còn các loại khác thì có giới là giới luật, có
giới là oai nghi, có giới là cả hai. Tất cả giới luật và oai nghi như vậy tạo
thành một bậc Chúng trung tôn.
Giới điều nhiều
đến mấy đi nữa mà, như Tứ phần luật nói, hễ có thiểu dục tri túc (kèm theo là
tàm quí) thì giữ được hết cả, kể cả khai giá (linh động và hạn chế) của mỗi
giới điều cũng thấy ra và giữ trọn.
Ai cũng có cái
hảo tâm xuất gia ban đầu. Ai đứng trước Phật cũng muốn mình xứng đáng với Ngài.
Nhưng chỉ có giới luật mới làm mình xứng đáng với Phật và không phụ hảo tâm của
mình.
Thích Trí Quang dịch giải
Mục lục
Ghi Sau Khi Duyệt Tỳ kheo Ni Giới
Tựa
Phần Đầu Tỳ kheo Ni Giới
1/ Tám Giới Khí
2/ Mười Bảy Giới Tăng tàn
3/ Ba mươi Giới Xả đọa
4/ Một Trăn Bảy Tám Giới Đọa
6/ Một Trăm Giới Học
7/ Bảy Pháp Diệt tránh
8/ Lời Kết Thúc
9/ Phần Cuối Tỳ kheo Ni Giới
Ổn thỏa nhất là
những gì cần làm cho Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới thì nên làm chung. Nhưng
làm cho Tỳ kheo giới rồi tôi mới phát nguyện làm cho Tỳ kheo ni giới. Do đó, Tỳ
kheo ni giới không có một ít điều tôi đã làm cho Tỳ kheo giới. Ngay lời ghi này
cũng vậy. Những gì cần ghi, tôi đã ghi bên Tỳ kheo giới. Luật không ngăn cản Tỳ
kheo coi Tỳ kheo ni giới hay ngăn cản Tỳ kheo ni coi Tỳ kheo giới. Vậy những gì
bên Tỳ kheo giới, chư vị Tỳ kheo ni có thể thẩm cứu.
Dầu vậy, ở đây
tôi muốn ghi về sự ăn thịt cá mà Tỳ kheo ni giới không dịch lược đi được. Mở
rộng vấn đề một chút là nói về sự ăn chay ăn mặn.
Nguyên thỉ Phật
giáo mà cái này mới chắc là nguyên thỉ thì tùy thí tùy thực (cho gì ăn nấy).
Nếu tôi nhớ không lầm, thì trước thời Phật, các triết gia Upanisad đã ăn chay.
Và ăn một cách nghiêm khắc, cái ăn đó có gây phiền phức. Cái ăn đó là một cực
đoan. Rồi khi chống lại Phật, muốn lập Phật giáo riêng, Đề Bà Đạt Đa đưa ra 5
sự, trong đó điều thứ 5 là suốt đời không ăn thịt cá máu mỡ bơ sữa ở (Bà sa
116, Phật học đại từ điển trang 533 dẫn). Thế đó lại càng là cực đoan. Bây giờ
ta giả thiết bên ăn chay đòi cho được đồ chay, bên ăn mặn đòi cho được đồ mặn,
thì thế chính là cực đoan, gây bao phiền phức cho người cho.
Phật không như
vậy. Phật giáo thì tăng ni đến gần giờ ăn mới đi khất thực. Khất thực thì ngay
bữa ăn của người cho, họ bớt ra mà cúng dường. Bữa ăn của họ có gì, họ cũng
cúng dường cái đó. Khất thực không đòi cho được đồ chay hay đồ mặn. Do vậy mà
trong luật mới có giới điều nói về sự ăn cá thịt.
Đại thừa thì
khác. Hãy gác vấn đề đại thừa có phải cũng là Phật giáo nguyên thỉ không, chỉ
nói đại thừa cấm tuyệt sự ăn mọi thứ thịt, với ý thức ăn thịt là phản Phật
tánh, là phi từ bi. Và sự cấm ăn thịt này thực sự tuyệt đối, cấm như sắc lịnh
là bởi Lương Vũ Đế. Ngày nay nói Phật giáo là nói ăn chay. Ăn có thịt cá trở
thành lạ lùng, khó nghe và khó coi.
Ghi như trên
đây là để giải thích sự ăn có cá thịt trong Luật, cho thấy Phật tử phải ăn chay
là vì sao.
Mười hai tháng
5, 2537
Trí Quang
Sau khi dịch Tỳ
kheo giới rồi, để cầu siêu nhân kỵ mẹ tôi, tôi phát ra cái ý dịch luôn Tỳ kheo
ni giới và Thức xoa ma na ni giới. Trước đây tôi đã dịch Sa di giới (Sa di luật
nghi yếu lược) và Sa di ni giới (Sa di ni luật nghi yếu lược). Bồ tát giới thì
đã được dịch lại, và lược giải khá kỷ năm 2531 (1987). Như vậy là tất cả giới
luật của 5 chúng xuất gia đã dịch xong.
Tỳ kheo ni
giới, khi tôi dịch, chỉ tìm thấy 3 bản. Bản 1 mang số 1481 của Đại tạng kinh
bản Đại chính, do ngài Hoài Tố biên tập. Bản 2 của ngài Nguyên Chiếu, nằm trong
Tục tạng kinh bản chữ Vạn, tập 64 các trang 1 12. Bản 3 là giới kinh thường
tụng nếu tụng Hoa văn, do Phật giáo Bắc khắc và ấn hành. Cả 3 bản, không có bản
nào được như Tứ phần luật hàm chú giới bản của Tỳ kheo giới, nên tôi chọn bản
thường tụng làm chính văn.
Tài liệu tham
khảo thì ngoài phần chính là Tứ phần luật (các cuốn 22 30), còn có những tài
liệu sau đây. Tứ phần luật danh nghĩa tiêu thích (gọi tắt là Danh nghĩa), bộ
này đích xác là tự điển và từ điển của Tứ phần luật, nằm trong Vạn 70/201 501.
Trùng trị, phần Tỳ kheo ni giới (Vạn 63/292 307). Tỳ kheo giới, bản dịch của
tôi. Một bản dịch Tỳ kheo ni giới không thấy tư tên người dịch.
Tỳ kheo ni giới
không có cái phước được chính ngài Đạo Tuyên làm việc cho, như cuốn Tứ phần
luật hàm chú giới bản.
Trong cách dịch
của tôi nên nói về tên của các giới điều. Bởi thấy đa số tên ấy tóm tắt và nêu
lên ý chính, nên tôi dịch và để trước các giới điều. Thế nhưng đến loại 6 và
loại 7, tác dụng ấy không có bao nhiêu nên tôi không dịch nữa.
Nay nên nói nội
dung của Tỳ kheo ni giới, bằng cách đối quán sơ lược với nhau giữa 5 bản Tỳ
kheo ni giới của 5 bộ luật. Tỳ kheo ni giới có 7 loại. Trong đó, loại một là
khí, thì 5 bộ luật đồng nhau; loại hai là Tăng tàn, thì Tăng kỳ có 19, Ngũ
phần, Thập tụng và Tứ phần đều có 17, Hữu bộ có 20; loại ba là Xả đọa, thì Tăng
kỳ, Ngũ phần, Thập tụng và Tứ phần đều có 30, Hữu bộ có 33; loại bốn là Đọa,
thì Tăng kỳ có 141, Ngũ phần có 210, Thập tụng có 178, Tứ phần có 178, Hữu bộ
có 180; loại năm là Hối quá, thì Tăng kỳ, Ngũ phần, Thập tụng và Tứ phần đều có
8, Hữu bộ có 11; loại sáu là Học pháp, thì Tăng kỳ có 65, Ngũ phần và Tứ phần
đều có 100, Thập tụng có 107, Hữu bộ có 42; loại bảy là Diệt tránh, thì 4 bộ
đều có 7, trừ Ngũ phần không có.
Bây giờ nói về
đại thể của Tỳ kheo ni giới. Đại thể ấy có 2 phần: phần 1 là giới luật, phần 2
là oai nghi. Phần 1 là những giới điều cấm tội lỗi thật sự, phần 2 là những
giới điều cấm cử động bất xứng. Tức như loại khí có thể nói là giới luật cả,
loại học pháp có thể nói là oai nghi cả. Còn các loại khác thì có giới là giới
luật, có giới là oai nghi, có giới là cả hai. Tất cả giới luật và oai nghi như
vậy tạo thành một bậc Chúng trung tôn.
Đến đây hãy nêu
lên mấy điều. Một, ngôn ngữ của giới này ai nghe thì đừng kinh quái, phát
ngượng, mà phải nghĩ đến ơn Phật, đã ly ái nhiễm, đã đắc thanh tịnh, nhưng vì
chúng ta nên kiết giới với những lời chữ không phải mỹ từ ở (Thiện kiến, Vạn
64/1 dẫn). Hai, về trường hợp có ra giới pháp thì đời Phật, tập thể Tỳ kheo ni
cũng không ít, vậy mà chỉ có 6 bà gọi là lục quần Tỳ kheo ni, và năm ba vị nữa,
có những cử động bất xứng, chứng tỏ tập thể Tỳ kheo ni ấy xứng đáng không ít.
Ba, số lượng của giới điều thật ra cũng không nhiều lắm, dò kỹ sẽ thấy con số
348 có thể qui nạp còn quá nửa mà thôi. Bốn, giới điều nhiều đến mấy đi nữa mà,
như Tứ phần luật nói, hễ có thiểu dục tri túc (kèm theo là tàm quí) thì giữ
được hết cả, kể cả khai giá (linh động và hạn chế) của mỗi giới điều cũng thấy
ra và giữ trọn.
Ai cũng có cái
hảo tâm xuất gia ban đầu. Ai đứng trước Phật cũng muốn mình xứng đáng với Ngài.
Nhưng chỉ có giới luật mới làm mình xứng đáng với Phật và không phụ hảo tâm của
mình.
Mồng 7 tháng 6,
2535 (1991)
Trí quang
Cúi đầu kính
lạy
chư Phật, Phật
pháp
và Tỳ kheo
tăng.
Nay tụng Giới
kinh (1)
là để làm cho
Phật pháp
thường còn.
Giới như biển
cả
không có bờ mé,
lại như ngọc
báu
cầu hoài không
chán.
Muốn giữ tài
sản
của các Thánh
giả (2),
đại chúng họp
lại
nghe tôi tụng
Giới.
Muốn trừ bốn
thứ
gọi là tội khí,
muốn diệt mười
ba
tội lỗi Tăng
tàn,
muốn ngăn ba
mươi
tội lỗi Xả đọa
(3),
đại chúng họp
lại
nghe tôi tụng
Giới.
Đức Tỳ Bà Thi
cùng đức Thi
Khí
đức Tỳ Xá Phù
đức Câu Lưu Tôn
đức Câu Na Hàm
cùng đức Ca
Diếp
và đức Thích
Ca,
chư Phật như
vậy
đã thuyết Giới
kinh (4),
nay tôi tụng
lại
Giới kinh như
vậy,
đại chúng cùng
nghe.
Ví như có người
chân đã thương
tổn
thì không thể
nào
tự đi đến đâu,
người nào phá
giới
thì cũng như
vậy
không thể sinh
trong
chư thiên nhân
loại.
Muốn sinh chư
thiên
hay sinh nhân
loại,
thì phải giữ
lấy
đôi chân giới
pháp,
đừng để có điều
vi phạm thương
tổn.
Như người đánh
xe
đi vào đường
hiểm
thì lo xe ấy
rơi chốt gãy
trục,
người mà phá
giới
thì cũng như
vậy,
đối diện cái
chết
lòng đầy lo sợ.
Như người soi
gương
thấy đẹp thì
thích
thấy xấu thì
rầu,
tụng giới cũng
vậy
giới toàn thì mừng
giới hỏng thì
lo.
Hai quân đánh
nhau
ai gan thì tiến
ai khiếp thì
thoái,
tụng giới cũng
vậy
trong sạch: yên
tâm
dơ bẩn: lo sợ.
Trong cả mọi
người
vua là hơn hết,
trong các dòng
nước
biển là hơn
hết,
trong các sao
đêm
trăng là hơn
hết,
trong các vị
thánh
Phật là hơn
hết,
trong các giới
luật (5)
Giới kinh hơn
hết,
nên đức Thế Tôn
đã qui định
rằng
cứ mỗi nửa
tháng
phải tụng một
lần.
Tăng tập hợp
chưa? Đáp: tăng đã tập hợp.
Tăng hòa hợp
không? Đáp: tăng hòa hợp.
Người chưa thọ
đại giới đã ra chưa? Nếu có thì bảo ra và đáp: người chưa thọ đại giới đã ra;
nếu không thì đáp: trong đây không có người chưa thọ đại giới.
Các vị Tỳ kheo
ni không đến đây có nói dữ dục và thanh tịnh (6) không? Nếu có thì đáp có và
thưa đúng cách, nếu không thì đáp trong đây không có người nói dữ dục và thanh
tịnh.
Hôm nay tăng
hòa hợp để làm gì? Đáp: để Yết ma tụng giới.
Đại tỷ tăng
nghe cho, hôm nay là ngày 15, ngày tăng Bố tát tụng giới, nếu tăng thấy đến lúc
(7), tăng chấp thuận, thì hòa hợp Bố tát tụng giới. Xin tác bạch như vậy. Tác
bạch thành không? Đáp: thành.
Tỷ kheo ni giới
Lời Mở Đầu
Bạch chư đại
tỷ, nay tôi sắp tụng Ba la đề mộc xoa. Chư vị Tỳ kheo ni cùng tập hợp một chỗ.
Chư vị hãy lắng, và nhớ nghĩ cho khéo. Nếu tự biết có phạm giới thì phải tự sám
hối, không phạm giới thì hãy im lặng. Vì im lặng mà biết chư đại tỷ thanh tịnh.
Nếu có ai hỏi thì cũng trả lời như vậy. Thế nên vị Tỳ kheo ni ở trong đại chúng
được hỏi đến lần thứ 3 và nhớ nghĩ mình có tội mà không phát lộ, thì bị tội cố
ý nói dối. Mà nói dối thì Phật đã dạy là sự cản trở thánh đạo (8). Nếu vị Tỳ
kheo ni nhớ nghĩ mình có tội và muốn được thanh tịnh thì phải sám hối. Sám hối
thì yên vui.
Bạch chư đại
tỷ, tôi đã nói lời nói đầu của Giới kinh. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong lời nói
đầu ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong lời nói đầu
ấy chư vị thanh tịnh cả, vì chư vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc (9) như
vậy.
Bạch chư đại
tỷ, 8 giới Ba la di (10) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được
rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới làm
sự bất tịnh. Nếu Tỳ kheo ni dâm dục, phạm vào sự bất tịnh (11) cho đến cùng với
súc vật, thì phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung (12) với
chư tăng.
Thứ 2 giới lấy
của không cho. Nếu Tỳ kheo ni ở trong xóm làng hay nơi vắng vẻ, lấy của người
ta không cho với ý thức ăn trộm; tùy tội lấy của không cho mà bị vua, hay đại
thần của vua, bắt, giết, trói, đuổi ra khỏi xứ, mắng rằng chị là giặc, chị ngu
si, chị không biết gì. Nếu Tỳ kheo ni làm sự lấy của không cho như vậy thì phạm
Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng.
Thứ 3 giới sát
hại mạng người. Nếu Tỳ kheo ni cố ý tự tay sát hại mạng người, hoặc cầm dao đưa
cho người, hoặc khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, rằng quái lạ, người
kia, sống khốn nạn như vậy làm gì, thà chết, đừng sống; với ý thức như vậy mà
nghĩ mọi cách để khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, thì phạm Ba la di của
Tỳ kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng.
Thứ 4 giới vọng
ngữ loại lớn. Nếu Tỳ kheo ni thật không biết gì mà tự khen tôi được pháp của
bậc thượng nhân, tôi đã nhập vào pháp siêu việt của thánh trí, tôi biết như
vậy, tôi thấy như vậy; qua thời gian khác, hoặc được hỏi hoặc không được hỏi,
mà muốn tự thanh tịnh nên nói rằng, các đại tỷ, tôi thật không biết không thấy
gì mà nói biết nói thấy, vọng ngữ dối trá, thì, trừ tăng thượng mạn, phạm Ba la
di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng.
Thứ 5 giới
nhiễm tâm xoa chạm. Nếu Tỳ kheo ni tâm ô nhiễm, cùng với người nam có tâm ô nhiễm,
từ kẻ nách sắp xuống, từ đầu gối trở lên, hai thân thể chạm nhau, hoặc bóp hoặc
xoa, hoặc kéo hoặc đẩy, hoặc xoa trên hoặc xoa dưới, hoặc bồng lên hoặc bế
xuống, hoặc nắm hoặc bóp mạnh, thì phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được
sống chung với chư tăng, vì lẽ thân thể chạm nhau.
Thứ 6 giới
nhiễm tâm tám sự. Nếu Tỳ kheo ni có tâm ô nhiễm, biết người nam cũng có tâm ô
nhiễm, mà chịu cho nắm tay, nắm áo, vào chỗ khuất, đứng chung, nói chung, đi
chung, thân thể dựa nhau, cùng nhau hẹn hò (13), thì phạm Ba la di của Tỳ kheo
ni, không còn được sống chung với chư tăng, vì lẽ phạm vào tám sự.
Thứ 7 giới giấu
che tội nặng. Nếu Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo ni khác phạm Ba la di mà mình không
phát lộ, không nói với Tỳ kheo ni khác, không thưa với đại chúng; qua thời gian
khác, Tỳ kheo ni phạm tội hoặc chết, hoặc bị đại chúng cử tội, hoặc thôi tu,
hoặc theo ngoại đạo, Tỳ kheo ni ấy bấy giờ mới nói, rằng trước đây tôi biết
người này có tội như vậy như vậy, thì phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn
được sống chung với chư tăng, vì lẽ che giấu tội nặng.
Thứ 8 giới theo
kẻ bị cử. Nếu Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo bị chư tăng cử tội một cách đúng giáo
pháp, đúng giới luật, đúng Phật huấn dụ, nhưng Tỳ kheo kia không phục tùng,
không sám hối, và chư tăng chưa làm Yết ma sống chung cho. Vậy mà Tỳ kheo ni ấy
thuận tùng Tỳ kheo kia. Các Tỳ kheo ni can gián, rằng đại tỷ, Tỳ kheo kia bị
chư tăng cử tội một cách đúng giáo pháp, đúng giới luật, đúng Phật huấn dụ,
nhưng Tỳ kheo kia không phục tùng, không sám hối, và chư tăng chưa làm Yết ma
sống chung cho, thì đại tỷ đừng thuận tùng. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo
ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián
đến lần thứ hai và lần thứ ba, vì để cho Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi.
Can gián đến lần thứ ba mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm Ba la di của Tỳ
kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng, vì lẽ phạm vào sự thuận tùng
kẻ bị chư tăng cử tội (14).
Bạch chư đại
tỷ, tôi đã nói 8 giới Ba la di. Nếu Tỳ kheo ni phạm vào mỗi một Ba la di, thì
không còn được sống chung với chư Tỳ kheo ni. Như khi chưa thọ đại giới, thọ
đại giới rồi mà vi phạm thì cũng vậy. Nên Tỳ kheo ni bị tội Ba la di thì không
nên sống chung với chư tăng. Vậy nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 8 giới ấy có
thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 8 giới ấy các vị thanh
tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
Bạch chư đại
tỷ, 17 giới Tăng già bà thi sa (15) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần,
và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới làm
người mai mối. Nếu Tỳ kheo ni làm mai mối, đem lời người nam nói với người nữ,
đem lời người nữ nói với người nam, để làm cho họ lấy nhau hay tư thông với
nhau, thì, dầu chỉ chốc lát, Tỳ kheo ni ấy cũng phạm Tăng già bà thi sa, loại
mới phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm (16).
Thứ 2 giới vu
khống phỉ báng. Nếu Tỳ kheo ni vì tức giận, không hoan hỷ, nên, một cách vô căn
cứ, phỉ báng vị khác phạm tội Ba la di, phỉ báng với ý thức muốn phá hoại sự
thanh tịnh của vị ấy; rồi trong thời gian khác, được hỏi hay không được hỏi, Tỳ
kheo ni ấy biết đó là sự phỉ báng vô căn cứ, và nói rằng vì tôi tức giận nên
phỉ báng như vậy, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là
thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 3 giới
xuyên tạc phỉ báng. Nếu Tỳ kheo ni vì tức giận, không hoan hỷ, nên lấy một cạnh
khía của việc khác, đối với vị Tỳ kheo ni không phạm Ba la di mà, một cách vô
căn cứ, phỉ báng rằng phạm tội Ba la di, với ý thức phá hoại sự thanh tịnh của
vị ấy; đến thời gian khác, được hỏi hay không được hỏi, Tỳ kheo ni ấy biết mình
lấy một cạnh khía của việc khác, tự nói vì tôi tức giận nên phỉ báng như vậy,
thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là thành tội và phải
bỏ mà đừng phạm.
Thứ 4 giới đến
quan thưa kiện. Nếu Tỳ kheo ni đến quan thưa kiện cư sĩ hay con cư sĩ, tôi tớ
hay người làm thuê, thưa kiện một ngày, một đêm, một khoảnh khắc, một khảy móng
tay, một giây phút, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là
thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 5 giới biết
mà độ giặc. Nếu Tỳ kheo ni biết trước là nữ tặc, tội đáng chết, ai cũng biết,
vậy mà không hỏi vua hay đại thần, không hỏi thành phần xã hội (17) của nữ tặc,
độ cho xuất gia và thọ cụ túc giới liền, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi
sa, loại mới phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 6 giới giải
cho bị cử. Nếu Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo ni khác bị chư tăng cử tội đúng giáo
pháp, đúng giới luật, đúng Phật huấn dụ, mà không phục tùng, không sám hối, và
chư tăng chưa làm Yết ma sống chung cho; vậy mà vì tình riêng, không hỏi chư
tăng, chư tăng cũng không chỉ thị, vẫn ra khỏi cương giới làm Yết ma giải tội
cho Tỳ kheo ni kia, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là
thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 7 giới đi
riêng ngủ lại. Nếu Tỳ kheo ni một mình lội nước, một mình vào làng, một mình
ngủ lại, một mình đi sau, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới
phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 8 giới
nhiễm tâm nhận ăn. Nếu Tỳ kheo ni tâm ô nhiễm, biết người nam cũng tâm ô nhiễm,
vậy mà từ người nam ấy nhận những thứ có thể ăn được, những thức ăn, những đồ
vật khác, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là thành tội
và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 9 giới
khuyên nhận nhiễm thực. (18). Nếu Tỳ kheo ni khuyên Tỳ kheo ni khác, bằng cách
nói như vầy, đại tỷ, người nam kia có nhiễm tâm hay không nhiễm tâm thì hại gì
đại tỷ. Đại tỷ bản thân không có nhiễm tâm thì nếu được thức ăn nơi người nam
kia, cứ đúng thời gian thích hợp mà nhận lấy. Khuyên như vậy thì Tỳ kheo ni ấy
phạm Tăng già bà thi sa, loại mới làm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 10 giới phá
tăng hòa hợp. Nếu Tỳ kheo ni muốn phá hoại tăng hòa hợp (19) nên hành động mọi
cách phá hoại tăng hòa hợp, chấp nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp mà kiên
trì không bỏ. Các vị Tỳ kheo ni nên can gián Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ, đừng
phá hoại tăng hòa hợp, đừng hành động mọi cách phá hoại tăng hòa hợp, đừng chấp
nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp mà kiên trì không bỏ. Đại tỷ hãy cùng tăng
hòa hợp; cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng học một thầy (20),
như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp sẽ có đời sống tăng ích, yên
vui. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì
không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ni ấy bỏ
sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì Tỳ kheo
ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ
mà đừng phạm.
Thứ 11 giới hỗ
trợ phá tăng (21). Nếu Tỳ kheo ni ấy có các Tỳ kheo ni khác làm phe cánh, một
người, hai người, ba người, cho đến vô số người; những Tỳ kheo ni phe cánh này
nói với các Tỳ kheo ni, rằng các đại tỷ, xin đừng can gián Tỳ kheo ni ấy, Tỳ
kheo ni ấy là Tỳ kheo ni nói đúng giáo pháp, Tỳ kheo ni nói đúng giới luật, Tỳ
kheo ni ấy nói chúng tôi ưa thích, Tỳ kheo ni ấy nói chúng tôi chấp nhận. Các
Tỳ kheo ni nói với các Tỳ kheo ni phe cánh, rằng các đại tỷ, đừng nói như vậy,
rằng Tỳ kheo ni ấy là Tỳ kheo ni nói đúng giáo pháp, Tỳ kheo ni nói đúng giới
luật, Tỳ kheo ni ấy nói chúng tôi ưa thích, Tỳ kheo ni ấy nói chúng tôi chấp
nhận. Bởi vì Tỳ kheo ni ấy nói không phải nói đúng giáo pháp, không phải nói
đúng giới luật. Các đại tỷ, đừng có ý muốn phá hoại tăng hòa hợp; các đại tỷ,
hãy thích thú tăng hòa hợp. Các đại tỷ, hãy cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không
tranh chấp, cùng học một thầy, như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp
sẽ có đời sống tăng ích, yên vui. Những Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni
can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỳ kheo ni nên can gián
đến lần thứ 3, vì để những Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần
thứ 3 mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa,
loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 12 giới
hoen ố tín đồ (22). Nếu Tỳ kheo ni sống trong thành thị hay xóm làng mà làm
hoen ố tín đồ và làm những việc xấu (23), làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe,
làm những việc xấu ai cũng thấy nghe. Các vị Tỳ kheo ni can gián Tỳ kheo ni ấy,
rằng đại tỷ, đại tỷ đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín
đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe; đại tỷ đã làm hoen
ố tín đồ và làm những việc xấu thì nay hãy đi xa khỏi xóm làng này, đừng nên ở
đây nữa. Tỳ kheo ni ấy nói với các vị Tỳ kheo ni, rằng chư đại tỷ, các Tỳ kheo
ni có tham, có sân, có si, có sợ; có cái việc những Tỳ kheo ni đồng tội mà
người bị đuổi người không bị đuổi. Các vị Tỳ kheo ni can rằng, đại tỷ, đừng nói
như vậy, rằng các vị Tỳ kheo ni có tham, có sân, có si, có sợ, có cái việc
những Tỳ kheo ni đồng tội mà người bị đuổi người không bị đuổi. Bởi vì các vị
Tỳ kheo ni không tham, không sân, không si, không sợ, không cái việc những Tỳ
kheo ni đồng tội mà người bị đuổi người không bị đuổi. Đại tỷ đã làm hoen ố tín
đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc
xấu ai cũng thấy nghe. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy
mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì
để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt,
không bỏ thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới
thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 13 giới
ngoan cố chống cự. Nếu Tỳ kheo ni tính tình ngoan cố, không nghe ai hết; trong
giới luật, các vị Tỳ kheo ni đã can gián đúng phép mà bản thân Tỳ kheo ni ấy
không chịu sự can gián ấy, bằng cách nói rằng, chư đại tỷ, đừng hướng về tôi mà
nói tôi tốt hay tôi xấu, tôi cũng không hướng về chư đại tỷ mà nói các vị tốt
hay các vị xấu. Chư đại tỷ hãy thôi đi, đừng luôn luôn can gián tôi. Các vị Tỳ
kheo ni can gián Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ, đừng nên chính mình không chịu ai
can gián. Đại tỷ nên chính mình chịu can gián. Đại tỷ hãy can gián chư Tỳ kheo
ni một cách đúng phép, chư Tỳ kheo ni cũng can gián đại tỷ một cách đúng phép.
Làm như vậy thì đệ tử của Phật được tăng ích nhờ can gián cho nhau, chỉ dạy cho
nhau, sám hối với nhau. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy
mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để
Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không
bỏ thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành
tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 14 giới
thân nhau giấu lỗi. Nếu Tỳ kheo ni sống gần gũi với nhau mà cùng làm những điều
bất thiện, tiếng xấu lan tràn mà lần lượt che giấu tội lỗi cho nhau. Các Tỳ
kheo ni khác nên can gián những Tỳ kheo ni ấy, rằng các đại tỷ, đừng gần gũi
nhau mà cùng làm những điều bất thiện, tiếng xấu lan tràn, rồi che giấu tội lỗi
cho nhau. Các vị nếu không gần gũi với nhau như vậy, thì trong Phật pháp các vị
sẽ được đời sống tăng ích và yên vui. Những Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo
ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián
đến lần thứ 3, vì để những Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần
thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì những Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa,
loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 15 giới bảo
đừng ở riêng. Nếu Tỳ kheo ni khi bị Tỳ kheo ni tăng quở trách can gián, Tỳ kheo
ni khác chỉ bày như vầy, đại tỷ đừng chịu sống riêng, hãy cứ sống chung. Tôi
thấy có các Tỳ kheo ni không chịu sống riêng, sống chung mà cùng làm những điều
bất thiện, tiếng xấu lan tràn và che giấu tội lỗi cho nhau. Chư Tỳ kheo ni tăng
vì tức giận nên bảo đại tỷ sống riêng mà thôi. Các Tỳ kheo ni nên can gián Tỳ
kheo ni khác ấy, rằng đại tỷ chớ bảo Tỳ kheo ni ấy đừng chịu sống riêng, chớ
nói tôi thấy có các vị Tỳ kheo ni sống chung mà cùng làm những điều bất thiện,
tiếng xấu lan tràn và che giấu tội lỗi cho nhau; chư Tỳ kheo ni tăng vì tức
giận nên bảo đại tỷ sống riêng mà thôi. Nay đúng ra chỉ có 2 Tỳ kheo ni là các
vị sống chung mà cùng làm những điều bất thiện, tiếng xấu lan tràn mà che giấu
tội lỗi cho nhau, chứ không còn có ai khác nữa. Nếu các vị sống riêng thì trong
Phật pháp các vị sẽ có đời sống tăng ích và yên vui. Tỳ kheo ni khác ấy khi
được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo
ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ni khác ấy bỏ sự kiên trì ấy đi.
Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì Tỳ kheo ni khác ấy phạm Tăng
già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 16 giới
giận bỏ Tam bảo. Nếu Tỳ kheo ni vì một việc nhỏ nhặt, tức giận không vui, liền
nói rằng tôi bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng; thế gian này không phải chỉ có Sa môn
Thích tử, mà còn có Sa môn bà la môn khác cũng tu phạn hạnh, tôi cũng có thể tu
phạn hạnh với họ. Các Tỳ kheo ni hãy can gián Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ đừng
vội vàng vì một việc nhỏ nhặt, tức giận không vui mà nói liền rằng tôi bỏ Phật,
bỏ Pháp, bỏ Tăng, thế gian này không phải chỉ có Sa môn Thích tử, mà còn có Sa
môn bà la môn khác cũng tu phạn hạnh, tôi cũng có thể tu phạn hạnh với họ. Tỳ
kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ,
thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên
trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì Tỳ kheo ni ấy
phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà
đừng phạm.
Thứ 17 giới ưa
cãi không nhớ. Nếu Tỳ kheo ni ưa tranh cãi vì không nhớ sự việc tranh cãi, lại
tức giận mà nói rằng chư tăng có tham, có sân, có si, có sợ. Các Tỳ kheo ni
phải can Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ, đừng ưa tranh cãi vì không khéo nhớ sự
việc tranh cãi, lại tức giận mà nói rằng chư tăng có tham, có sân, có si, có
sợ. Thật ra chư tăng không tham, không sân, không si, không sợ, mà đại tỷ tự
mình có tham, có sân, có si, có sợ. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can
gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần
thứ 3, vì để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ
thì tốt, không thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can
gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Bạch chư đại
tỷ, tôi đã nói 17 giới Tăng già bà thi sa mà 9 giới trước thì mới phạm là thành
tội, 8 giới sau thì sau 3 lần can gián mới thành tội. Nếu Tỳ kheo ni phạm mỗi
một giới, thì chư tăng 2 bộ phải buộc Tỳ kheo ni ấy nửa tháng thi hành phép
hoan hỷ (24). Thi hành phép hoan hỷ rồi chư tăng giải tội cho. Phải giữa chư
tăng 40 vị của 2 bộ mà giải tội cho Tỳ kheo ni ấy; nếu thiếu 1 vị, không đủ 40
vị, thì có giải tội đi nữa, tội của Tỳ kheo ni ấy cũng không giải được, mà chư
tăng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni (25) cũng đáng khiển trách. Đó là trường hợp (26)
này. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 17 giới Tăng già bà thi sa ấy có thanh tịnh
cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 17 giới ấy các vị thanh tịnh cả,
vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
Bạch chư đại
tỷ, 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề (27) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một
lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới cất
y quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni 5 y đã hoàn chỉnh, y công đức (28) đã xả, mà cất giữ
trường y (29) trong 10 ngày, thì không làm tịnh thí (30) cũng được cất giữ,
nhưng quá hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 2 giới rời
y mà ngủ. Nếu Tỳ kheo ni 5 y (31) hoàn chỉnh, y công đức đã xả, mà trong 5 y
rời 1 y ngủ khác chỗ trong 1 đêm, thì, trừ được tăng Yết ma (32) cho phép, phạm
Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 3 giới cất
vải quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni 5 y hoàn chỉnh (33), y công đức đã xả, nhưng Tỳ
kheo ni ấy được vải phi thời, vậy cần thì cứ nhận, nhận rồi may y cho mau
thành. Nếu vải đủ thì tốt, nếu vải không đủ thì được phép cất lại 1 tháng, chờ
cho đủ vải. Nếu cất lại quá hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 4 giới xin
y không thân. Nếu Tỳ kheo ni xin y nơi cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến
của mình, thì, trừ trường hợp khác, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề. Trường hợp khác
là nếu y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, như vậy gọi là trường hợp khác.
Thứ 5 giới lấy
vải quá phận. Nếu Tỳ kheo ni y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, và nếu cư sĩ
hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình tự ý xin cho nhiều vải, thì Tỳ kheo
ni ấy nên nhận vải ấy theo sự biết vừa đủ. Nếu nhận nhiều quá thì phạm Ni tát
kỳ Ba dật đề.
Thứ 6 giới xin
thêm tiền y. Nếu Tỳ kheo ni có cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho Tỳ kheo ni
ấy, nói rằng sắm số tiền may y như vậy để cúng cho Tỳ kheo ni tên như vậy. Tỳ
kheo ni ấy trước không có nhận lời xin tùy ý (34), vậy mà vì muốn được y tốt
nên đến nhà cư sĩ, nói như thế này: tốt lắm, cư sĩ, hãy vì tôi mà sắm giá tiền
như vậy cho tôi. Như vậy mà được y thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 7 giới
khuyên chung tiền lại. Nếu Tỳ kheo ni có 2 cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền mua y cho
Tỳ kheo ni ấy, nói rằng chúng ta mua y như vậy để cúng cho Tỳ kheo ni tên như
vậy. Tỳ kheo ni ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, vậy mà vì muốn được y tốt
nên đến nhà 2 cư sĩ nói như vầy: tốt lắm, cư sĩ, hãy sắm tiền mua y như vậy,
chung nhau mà mua cho tôi 1 cái y. Như vậy mà được y thì phạm Ni tát kỳ Ba dật
đề.
Thứ 8 giới đòi
y quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni có vua, đại thần, bà la môn, cư sĩ và vợ cư sĩ, phái
người đưa số tiền sắm y đến cho Tỳ kheo ni ấy, nói rằng hãy cầm tiền sắm y này
đến đưa cho vị Tỳ kheo ni tên như vậy. Người được phái đến chỗ Tỳ kheo ni ấy,
nói với Tỳ kheo ni ấy, rằng bạch đại tỷ, nay con đem tiền sắm y đến cho bà, xin
bà nhận lấy. Tỳ kheo ni ấy nói như thế này với người được phái, rằng tôi không
nên nhận số tiền sắm y này; nếu khi tôi cần y thì phải đúng lúc và thanh tịnh
mới nhận được. Người được phái nói với Tỳ kheo ni ấy, rằng bạch đại tỷ, bà có
người giúp việc không? Tỳ kheo ni ấy nói có; có người ở trong chùa kia, có
người nữ cư sĩ kia, họ là những người giúp việc của các Tỳ kheo ni, thường giúp
việc cho các vị. Bấy giờ người được phái đi đến nơi người giúp việc, giao số
tiền sắm y, rồi trở lại chỗ Tỳ kheo ni ấy mà nói như vầy: bạch đại tỷ, người
giúp việc tên như vậy, mà bà đã chỉ, con đã giao cho người ấy số tiền sắm y.
Khi nào bà thấy đúng lúc thì xin bà đến người ấy, sẽ sắm được y. Tỳ kheo ni ấy
khi cần y thì nên đến người giúp việc mà, lần thứ hai và lần thứ ba, nhắc cho
người ấy nhớ, bằng cách nói rằng tôi cần y; nếu lần thứ hai và lần thứ ba nhắc
cho người ấy nhớ mà được y thì tốt. Nếu không được y thì lần thứ tư, lần thứ
năm, lần thứ sáu, hãy yên lặng đứng trước người ấy cho người ấy nhớ; nếu lần
thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu, yên lặng đứng trước người ấy mà được y thì
tốt. Nếu không được y mà đòi quá giới hạn nói trên để cho được y, thì phạm Ni
tát kỳ Ba dật đề. Nếu không được y thì tự mình đi hay phái người đi, đến nơi
người cho tiền sắm y mà nói, rằng trước đây người phái người đem tiền sắm y đến
cho tôi, Tỳ kheo ni tên như vậy; nhưng rốt cuộc tôi không được y, vậy người hãy
đi lấy về, đừng để mất đi. Đó là trường hợp có thể làm.
Thứ 9 giới cầm
lấy tiền của. Nếu Tỳ kheo ni tự tay cầm lấy bạc vàng hay tiền, hoặc bảo người
cầm lấy, hoặc nhận lấy bằng cách miệng nói được (35), thì phạm Ni tát kỳ Ba dật
đề.
Thứ 10 giới bán
mua (36) bảo vật. Nếu Tỳ kheo ni mà bán mua các thứ bảo vật, thì phạm Ni tát kỳ
Ba dật đề.
Thứ 11 giới
buôn bán các thứ. Nếu Tỳ kheo ni mà mua rẻ bán đắt mọi thứ thì phạm Ni tát kỳ
Ba dật đề.
Thứ 12 giới
kiếm bát quá phận. Nếu Tỳ kheo ni dùng cái bát chưa đủ 5 chỗ hàn bịt, bát ấy
cũng chưa rỉ nước, vậy mà thay vào đó đi tìm bát mới cho đẹp, thì phạm Ni tát
kỳ Ba dật đề. Tỳ kheo ni ấy nên đem cái bát mới ấy đến giữa ni chúng mà xả bỏ.
Ni chúng tuần tự đem đổi từ thượng tọa đến hạ tọa, lấy cái bát của hạ tọa đưa
cho Tỳ kheo ni ấy, và nói rằng hiền muội (37) dùng cái bát này cho đến bể. Đó
là đúng trường hợp.
Thứ 13 giới
kiếm chỉ dệt y. Nếu Tỳ kheo ni tự xin chỉ sợi, bảo thợ dệt không phải thân
quyến của mình dệt y giúp, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 14 giới bảo
thợ dệt thêm. Nếu Tỳ kheo ni có cư sĩ hay vợ cư sĩ bảo thợ dệt dệt y cho Tỳ
kheo ni ấy. Tỳ kheo ni ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, lại đi đến chỗ thợ
dệt, bảo rằng y này là dệt cho tôi, vậy anh dệt giúp cho thật đẹp, dệt cho rộng
và bền, tốn thêm nhiều ít gì tôi cũng trả cho anh. Tỳ kheo ni ấy trả thêm tiền dầu
chỉ đáng giá một bữa ăn mà được y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 15 giới
đoạt lấy y lại. Nếu Tỳ kheo ni trước cho y Tỳ kheo ni khác, sau vì tức giận nên
tự đoạt lại, hay bảo người đoạt, và rằng hãy trả y lại cho tôi, tôi không cho
đại tỷ nữa. Tỳ kheo ni này trả y, mà Tỳ kheo ni ấy lấy y, thì phạm Ni tát kỳ Ba
dật đề.
Thứ 16 giới cất
thuốc quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni có bịnh, cất thuốc như sữa tô, dầu, sữa tô tươi,
mật ong, đường phèn, được dùng cách đêm cho đến 7 ngày. Nếu quá 7 ngày mà còn
dùng thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 17 giới cất
y cúng gấp. Nếu Tỳ kheo ni còn 10 ngày nữa thì hết kiết hạ 3 tháng (38), chư Tỳ
kheo ni được phép nhận y cúng vội vàng. Tỳ kheo ni ấy biết là y cúng vội vàng
thì nên nhận, nhận rồi được cất giữ trong thì hạn của y ấy (39). Nếu cất giữ
quá thì hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 18 giới
xoay vật chư tăng. Nếu Tỳ kheo ni biết đó là vật người ta muốn hiến cúng cho
chư tăng, mà mình tìm cách xoay lại hiến cúng cho mình, thì phạm Ni tát kỳ Ba
dật đề.
Thứ 19 giới đòi
vầy đòi khác. Nếu Tỳ kheo ni muốn đòi hỏi cái này lại đòi hỏi cái khác, thì
phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 20 giới
tiền đường làm y. Nếu Tỳ kheo ni biết đàn việt hiến cho chư tăng là để làm pháp
đường, vậy mà mình đổi ra làm những việc khác, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề
(40).
Thứ 21 giới
tiền ăn làm y. Nếu Tỳ kheo ni biết đàn việt hiến cho chư tăng là để ăn, mình
kiếm cũng là kiếm cho chư tăng ăn, vậy mà mình đổi ra làm những việc khác, thì
phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 22 giới
tiền phòng làm y. Nếu Tỳ kheo ni biết đàn việt hiến cho chư tăng là để làm
phòng, vậy mà mình đổi ra làm những việc khác, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 23 giới
tiền nhà làm y. Nếu Tỳ kheo ni biết đàn việt hiến cho chư tăng là để làm nhà,
mình kiếm cũng là kiếm để làm nhà cho chư tăng, vậy mà mình đổi ra làm những
việc khác, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 24 giới cất
trường bát tốt. Nếu Tỳ kheo ni cất giữ trường bát (41) mà không tịnh thí, thì
phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 25 giới cất
nhiều đồ tốt. Nếu Tỳ kheo ni cất nhiều đồ màu tốt, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật
đề.
Thứ 26 giới
không cho bịnh y. Nếu Tỳ kheo ni hứa cho bịnh y (42) cho Tỳ kheo ni khác, nhưng
rồi không cho, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 27 giới y
thời phi thời. Nếu Tỳ kheo ni đem phi thời y làm thời y (43), thì phạm Ni tát
kỳ Ba dật đề.
Thứ 28 giới
giận lấy y lại. Nếu Tỳ kheo ni đã đổi y cho Tỳ kheo ni khác rồi, sau đó tức
giận nên tự đoạt lại hay bảo người đoạt lại, rằng hiền muội hãy trả y lại cho
tôi, tôi không cho hiền muội nữa; y của tôi hiền muội trả cho tôi, y của hiền
muội tôi trả cho hiền muội. Đoạt lại như vậy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 29 giới áo
dày quá giá. Nếu Tỳ kheo ni xin áo dày thì chỉ được ngang với giá tiền 4 tấm
vải mịn (44); quá giá ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 30 giới áo
mỏng quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni muốn xin áo mỏng (45) thì cao lắm cũng chỉ đến giá
tiền 2 tấm rưỡi vải mịn; quá giá ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Bạch chư đại
tỷ, tôi đã nói 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 30
giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 30 giới ấy
các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
Bạch chư đại
tỷ, 178 giới Ba dật đề (46) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được
rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới cố ý
nói dối. Nếu Tỳ kheo ni cố ý nói dối, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 2 giới
chưởi mắng thành phần (47). Nếu Tỳ kheo ni chưởi mắng, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 3 giới nói
để ly gián. Nếu Tỳ kheo ni nói ly gián thì phạm Ba dật đề.
Thứ 4 giới ngủ
cùng một nhà. Nếu Tỳ kheo ni cùng người nam ngủ một nhà thì phạm Ba dật đề.
Thứ 5 giới ngủ
quá thì hạn. Nếu Tỳ kheo ni cùng ngủ một nhà với người nữ chưa thọ đại giới mà
quá 3 đêm, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 6 giới đọc
tụng ồn náo. Nếu Tỳ kheo ni cùng với người chưa thọ đại giới đọc tụng kinh pháp
một cách ồn náo, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 7 giới nói
tội lỗi nặng. Nếu Tỳ kheo ni biết người có tội lỗi nặng mà đem nói với người
chưa thọ đại giới, thì, trừ tăng Yết ma sai bảo, phạm Ba dật đề.
Thứ 8 giới nói
thật đắc đạo. Nếu Tỳ kheo ni nói với người chưa thọ đại giới, rằng tôi được cái
pháp hơn người, rằng tôi thấy như vậy, tôi biết như vậy; nói thật như vậy thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 9 giới một
mình thuyết pháp. Nếu Tỳ kheo ni thuyết pháp cho người nam mà quá năm sáu lời
(48), thì, trừ sự có mặt của nữ nhân trí thức, phạm Ba dật đề.
Thứ 10 giới đào
cuốc đất đai. Nếu Tỳ kheo ni tự tay đào đất hay bảo người đào đất, thì phạm Ba
dật đề.
Thứ 11 giới
chặt phá cây sống. Nếu Tỳ kheo ni chặt phá cây cối, có nghĩa phá hủy chỗ ở của
quỉ thần và sinh vật (49), thì phạm Ba dật đề.
Thứ 12 giới nói
làm bực mình. Nếu Tỳ kheo ni bày đặt nói quanh để làm người khác bực mình, thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 13 giới
ghét mắng tri sự. Nếu Tỳ kheo ni ghét mắng chức sự của chư tăng thì phạm Ba dật
đề.
Thứ 14 giới
trải đồ đất trống. Nếu Tỳ kheo ni đem đồ của chư tăng như giường giây (50),
giường cây, đồ nằm và nệm ngồi, tự sắp ra trên mặt đất trống, hay bảo người sắp
ra, dùng rồi bỏ đó mà đi, không tự xếp cất, cũng không bảo ai xếp cất, thì phạm
Ba dật đề.
Thứ 15 giới
trải đồ chỗ che. Nếu Tỳ kheo ni sắp đồ nằm của chư tăng ra trong tăng phòng, tự
mình sắp ra hay bảo người sắp ra, hoặc ngồi hoặc nằm, rồi bỏ đó mà đi, không tự
xếp cất, cũng không bảo ai xếp cất, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 16 giới
cưỡng chiếm chỗ nằm. Nếu Tỳ kheo ni biết chỗ của Tỳ kheo ni ở trước, mình đến
sau mà cưỡng chiếm ở giữa, trải đồ nằm ra ngủ nghỉ, với ý nghĩ rằng nếu Tỳ kheo
ni ở trước hiềm chật quá thì sẽ tự tránh mình mà đi. Ấy là muốn làm như thế chứ
không có lý do gì khác. Phi uy nghi như vậy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 17 giới lôi
ra khỏi phòng. Nếu Tỳ kheo ni tức giận, không ưa Tỳ kheo ni khác, nên trong
phòng của chư tăng mà tự mình lôi ra hay bảo người lôi ra, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 18 giới
ngồi giường sút chân. Nếu Tỳ kheo ni ở trên gác, mà ngồi hay nằm trên giường
giây hay giường cây sút chân, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 19 giới
dùng nước có trùng. Nếu Tỳ kheo ni biết nước có trùng mà tự đem dội trên đất
trên cỏ, hay bảo người dội, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 20 giới lợp
nhà quá mức. Nếu Tỳ kheo ni làm phòng hay nhà lớn, có cửa cánh, cửa sổ, và
những đồ trang trí khác, thì chỉ bảo lợp tranh chừng hai hay ba lớp. Lợp quá
thì phạm Ba dật đề.
Thứ 21 giới ăn
quá một bữa. Nếu Tỳ kheo ni có thí chủ chỉ cúng một bữa ăn, Tỳ kheo ni ấy không
bịnh thì nên ăn một bữa thôi. Nếu ăn quá đi thì phạm Ba dật đề.
Thứ 22 giới ăn
riêng tăng chúng. Nếu Tỳ kheo ni ăn riêng tăng chúng thì, trừ các trường hợp
khác, phạm Ba dật đề. Các trường hợp khác là khi bịnh, khi may y gấp, khi có
người dâng y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại chúng tập hợp, khi Sa môn
của ngoại đạo mời ăn, đó gọi là các trường hợp khác.
Thứ 23 giới
nhận quá giới hạn. Nếu Tỳ kheo ni đến nhà cư sĩ tha thiết thỉnh Tỳ kheo ni để
cúng bánh, miến và cơm, Tỳ kheo ni ấy nếu cần thì nhận vài ba bát, đem về trong
chùa nên chia cho các Tỳ kheo ni khác cùng ăn. Nếu Tỳ kheo ni ấy không bịnh mà
nhận quá vài ba bát, đem về trong chùa cũng không chia cho các Tỳ kheo ni khác
cùng ăn, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 24 giới ăn
lúc phi thời. Nếu Tỳ kheo ni ăn lúc không phải giờ ăn (51), ăn như vậy thì phạm
Ba dật đề.
Thứ 25 giới ăn
đồ cách đêm. Nếu Tỳ kheo ni đồ ăn để cách đêm mà ăn thì phạm Ba dật đề.
Thứ 26 giới ăn
đồ không nhận. Nếu Tỳ kheo ni đối với thức ăn hay thuốc mình không nhận lời mời
mà đã bỏ vào miệng (52) thì, trừ nước và tăm, phạm Ba dật đề.
Thứ 27 giới đi
mà không nói. Nếu Tỳ kheo ni trước đã nhận lời mời về bữa ăn trước hay bữa ăn
sau (53), rồi đi đến nhà khác mà không dặn lại cho các Tỳ kheo ni, thì, trừ
trường hợp khác, phạm Ba dật đề. Trường hợp khác là bịnh, may y, cho y, đó gọi
là trường hợp khác.
Thứ 28 giới nhà
ăn ngồi dai. Nếu Tỳ kheo ni tại nhà ăn có vật báu (54) mà mình miễn cưỡng ngồi
dai, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 29 giới nhà
ăn ngồi khuất. Nếu Tỳ kheo ni tại nhà ăn có vật báu mà mình ngồi chỗ khuất, thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 30 giới
ngồi với người nam. Nếu Tỳ kheo ni một mình cùng với người nam ngồi chung một
chỗ ở đất trống, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 31 giới
đuổi người đi đi. Nếu Tỳ kheo ni nói với Tỳ kheo ni khác như vầy, đại tỷ, đi
với tôi đến xóm làng, sẽ có thức ăn cho đại tỷ. Nhưng đến rồi, Tỳ kheo ni ấy đã
không khuyên cúng thức ăn cho Tỳ kheo ni khác này, mà lại bảo đại tỷ đi đi, tôi
cùng đại tỷ ngồi hay nói với nhau một chỗ thì tôi không ưa, tôi ngồi một mình
nói một mình thì thích hơn. Chỉ vì lý do như vậy, chứ không có lý do gì khác
hơn mà tìm cách xua đuổi người khác đi đi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 32 giới
nhận thuốc quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni được xin cho thuốc 4 tháng, Tỳ kheo ni ấy
không bịnh cũng nên nhận. Nhưng nếu nhận quá thì hạn ấy, thì, trừ người ta xin
cho luôn, xin cho thêm, xin chia mà cho, xin cho suốt đời, phạm Ba dật đề.
Thứ 33 giới đi
coi quân trận. Nếu Tỳ kheo ni đi coi quân trận thì, trừ trường hợp có lý do,
phạm Ba dật đề.
Thứ 34 giới
trong quân quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni có lý do thì được phép đến trong quân đội tá
túc 2 đêm 3 đêm, quá thì hạn ấy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 35 giới coi
quân diễn tập. Nếu Tỳ kheo ni được phép tá túc trong quân đội vài ba đêm mà
hoặc coi quân đội dàn trận, hoặc coi lực lượng tượng binh lính diễn tập, thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 36 giới
uống các thứ rượu. Nếu Tỳ kheo ni uống các thứ rượu thì phạm Ba dật đề.
Thứ 37 giới đùa
giỡn dưới nước. Nếu Tỳ kheo ni đùa giỡn dưới nước thì phạm Ba dật đề.
Thứ 38 giới
thọc léc người khác. Nếu Tỳ kheo ni lấy ngón tay ngón chân thọc léc Tỳ kheo ni
khác thì phạm Ba dật đề.
Thứ 39 giới
không nhận khuyên can. Nếu Tỳ kheo ni không chấp nhận mọi sự khuyên can thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 40 giới dọa
cho người sợ. Nếu Tỳ kheo ni dọa cho Tỳ kheo ni khác sợ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 41 giới tắm
dưới nửa tháng. Nếu Tỳ kheo ni thì nửa tháng tắm rửa. Tỳ kheo ni không bịnh thì
nên nhận như vậy. Nếu nhiều hơn thì, trừ trường hợp khác, phạm Ba dật đề.
Trường hợp khác là khi nóng, khi bịnh, khi làm việc, khi bị gió lớn, khi bị mưa,
khi đến từ đường xa, đó gọi là những trường hợp khác.
Thứ 42 giới đốt
lửa đất trống. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, mà chỉ vì sưởi ấm nên tự đốt lửa giữa
đất trống hay bảo người đốt, thì, trừ trường hợp có lý do, phạm Ba dật đề.
Thứ 43 giới cất
giấu vật dụng. Nếu Tỳ kheo ni cất giấu vật dụng của Tỳ kheo ni khác như y, bát,
đồ ngồi, ống kim, mình tự cất giấu hay bảo người cất giấu, ít nhất chỉ để giỡn
chơi thôi, cũng phạm Ba dật đề.
Thứ 44 giới cho
rồi lấy lại. Nếu Tỳ kheo ni đã đem y cho Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na,
sa di, sa di ni rồi, sau đó không nói với người chủ của y được cho, mà lấy lại
dùng, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 45 giới
dùng y mới nguyên. Nếu Tỳ kheo ni được có y mới nguyên, thì nên dùng 3 màu
nhuộm cho hỏng nguyên màu đi, đó là màu xanh, màu đen, màu nấu vỏ cây mọẤc lan.
Nếu Tỳ kheo ni ấy không lấy màu xanh, màu đen, màu nấu vỏ cây mộc lan, 3 màu
nhuộm cho hỏng nguyên màu đi, mà dùng y mới nguyên, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 46 giới cố
hại súc sinh. Nếu Tỳ kheo ni cố hại tính mạng súc sinh, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 47 giới
uống nước có trùng. Nếu Tỳ kheo ni biết nước có trùng mà vẫn uống vẫn dùng, thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 48 giới
quấy rối người khác. Nếu Tỳ kheo ni cố ý làm bực mình Tỳ kheo ni khác, thì dầu
làm cho chốc lát không vui thôi cũng phạm Ba dật đề.
Thứ 49 giới che
giấu tội người. Nếu Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo ni khác phạm tội nặng mà che giấu
thì phạm Ba dật đề.
Thứ 50 giới
khơi sự tranh cãi (55). Nếu Tỳ kheo ni biết sự tranh cãi đã sám hối đúng phép
rồi, mà sau đó mình còn khơi dậy trở lại, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 51 giới hẹn
đi với giặc. Nếu Tỳ kheo ni biết là giặc mà hẹn cùng đi một đường, thì dẫu đi
chỉ bằng đến một thôn cũng phạm Ba dật đề.
Thứ 52 giới
chống can nói càn. Nếu Tỳ kheo ni nói như vầy: theo tôi biết giáo pháp Phật nói
thì hành dâm không phải là sự chướng đạo. Tỳ kheo ni khác can Tỳ kheo ni ấy,
rằng đại tỷ, đừng nói như vậy, đừng phỉ báng đức Thế Tôn. Phỉ báng đức Thế Tôn
thì không tốt. Đức Thế Tôn không nói như vậy. Đức Thế Tôn đã dùng nhiều cách
nói rằng dâm dục là chướng đạo, phạm vào dâm dục là chướng đạo. Tỳ kheo ni khác
can gián Tỳ kheo ni ấy mà Tỳ kheo ni ấy kiên trì không bỏ, thì Tỳ kheo ni khác
phải can gián đến lần thứ 3 để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến
lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 53 giới
theo người có lỗi. Nếu Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo ni nói “theo tôi biết giáo
pháp Phật nói thì hành dâm không phải là sự chướng đạo” đang bị cử tội mà
chưa được tác pháp giải tội, sự thấy biết sai lầm đến như vậy cũng không chịu
từ bỏ; biết như vậy mà vẫn chứa chấp, vẫn cùng Yết ma, vẫn cùng ngủ nghỉ, thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 54 giới
dung kẻ bị đuổi. Nếu Tỳ kheo ni biết sa di ni nói như vầy: tôi nghe Phật nói
hành dâm không phải là sự chướng đạo. Các vị Tỳ kheo ni can gián sa di ni ấy,
bằng cách nói rằng cô đừng nói như vậy, đừng phỉ báng đức Thế Tôn, phỉ báng đức
Thế Tôn thì không tốt; đức Thế Tôn không dạy như cô nói. Này, sa di ni, đức Thế
Tôn đã dùng nhiều cách nói dâm dục là chướng đạo, phạm vào dâm dục là chướng
đạo. Các vị Tỳ kheo ni can gián như vậy mà sa di ni ấy kiên trì không bỏ, thì
các vị Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3 để sa di ni ấy bỏ sự kiên trì ấy
đi. Nếu can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt. Nếu không bỏ thì các vị Tỳ kheo
ni nên bảo sa di ni ấy, rằng từ nay sắp đi cô không phải là đệ tử của Phật,
không còn được theo các vị Tỳ kheo ni, các sa di ni khác được ngủ một phòng với
Tỳ kheo ni 2 đêm thì cô không còn được sự ấy nữa: cô hãy đi ra đi, hãy đi mất
đi, không nên ở đây nữa. Nếu Tỳ kheo ni biết sa di ni ấy bị chư tăng đuổi như
vậy mà chứa chấp, cho ở chung ngủ chung, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 55 giới
chống cự khuyên học. Nếu Tỳ kheo ni khi được các Tỳ kheo ni đúng phép can gián,
mà nói như vầy: tôi nay không học giới này, tôi sẽ gạn hỏi vị trì luật nào có
trí tuệ, thì phạm Ba dật đề. Nếu muốn học thật thì lại cần phải gạn hỏi.
Thứ 56 giới phỉ
báng giới pháp. Nếu Tỳ kheo ni khi nghe thuyết giới mà nói như vầy: đại tỷ cần
gì phải nói những giới điều vụn vặt như vậy. Nói những giới điều như vậy chỉ
làm người bực mình, xấu hổ, thắc mắc. Vì khinh chê giới pháp nên phạm Ba dật
đề.
Thứ 57 giới sợ
nên nói trước. Nếu Tỳ kheo ni khi nghe thuyết giới mà nói như vầy: nay tôi mới
biết giới điều này mỗi nửa tháng tụng một lần, rút ra từ trong Giới kinh. Nhưng
các Tỳ kheo ni khác biết Tỳ kheo ni ấy đã 2 lần 3 lần ngồi nơi chỗ thuyết giới,
huống chi đã nhiều lần. Tỳ kheo ni ấy nói không hiểu biết, vậy nếu phạm tội thì
phải đúng pháp mà trị tội đã phạm, lại trị thêm tội không hiểu biết; hãy bảo
rằng, đại tỷ không được lợi ích, chỉ được bất thiện, ấy là khi nghe thuyết giới
mà đại tỷ không dụng tâm ghi nhớ, không nghe với một lòng và hai tai. Ấy vậy,
không hiểu biết giới điều thì phạm Ba dật đề.
Thứ 58 giới Yết
ma rồi hối. Nếu Tỳ kheo ni chung cùng Yết ma rồi, sau đó nói rằng các Tỳ kheo
ni theo bạn thân nên lấy vật của chư tăng mà cho họ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 59 giới
không nói dữ dục. Nếu Tỳ kheo ni, chư tăng xử việc chưa xong, mình không nói dữ
dục mà đứng dậy đi ra, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 60 giới dữ
dục rồi hối. Nếu Tỳ kheo ni dữ dục rồi sau đó trách móc, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 61 giới lén
nghe tranh cãi. Nếu Tỳ kheo ni, các Tỳ kheo ni tranh cãi với nhau, mình lén
nghe rồi đem lời ấy nói với người khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 62 giới
đánh Tỳ kheo ni. Nếu Tỳ kheo ni vì tức giận không vui mà đánh Tỳ kheo ni khác,
thì phạm Ba dật đề.
Thứ 63 giới tát
Tỳ kheo ni. Nếu Tỳ kheo ni vì tức giận không vui mà lấy tay tát Tỳ kheo ni
khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 64 giới vu
khống phạm tội. Nếu Tỳ kheo ni vì tức giận nên đem sự vô căn cứ mà phỉ báng Tỳ
kheo ni khác phạm Tăng già bà thi sa, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 65 giới vào
cửa cung vua. Nếu Tỳ kheo ni, có vua thuộc dòng Sát lợi, rưới nước đỉnh đầu lúc
đăng quang, vua này chưa ra khách, chưa cất bảo vật, mà mình đi vào, nếu bước
qua ngưỡng cửa cung vua, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 66 giới cầm
giữ vàng ngọc. Nếu Tỳ kheo ni đối với vàng ngọc hay đồ trang sức bằng vàng
ngọc, mà mình tự cầm giữ hay bảo người cầm giữ, thì, trừ trong chùa và chỗ ngủ
nhờ, phạm Ba dật đề. Trong chùa và chỗ ngủ nhờ mà cầm giữ vàng ngọc hay đồ
trang sức bằng vàng ngọc, tự mình cầm giữ hay bảo người cầm giữ, thì nên nghĩ
rằng để người chủ nhớ mà đến lấy: vì ý nghĩ ấy chứ không vì gì khác.
Thứ 67 giới đi
không phải lúc. Nếu Tỳ kheo ni đi vào xóm làng không phải lúc, mà không dặn lại
Tỳ kheo ni khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 68 giới làm
giường quá cỡ. Nếu Tỳ kheo ni làm giường giây giường cây, thì chân chỉ cao bằng
8 ngón tay của Phật, trừ chỗ vô mộng hớt rồi. Nếu quá cỡ ấy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 69 giới dồn
bông độn nệm. Nếu Tỳ kheo ni dồn đâu la (56) độn nệm lót giường giây giường
cây, hay độn ngọa cụ tọa cụ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 70 giới ăn
các thứ tỏi (57). Nếu Tỳ kheo ni ăn các thứ tỏi thì phạm Ba dật đề.
Thứ 71 giới cạo
lông 3 chỗ. Nếu Tỳ kheo ni cạo lông 3 chỗ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 72 giới
dùng quá giới hạn. Nếu Tỳ kheo ni dùng nước tác tịnh thì nên giới hạn 2 ngón
tay, mỗi ngón 1 đốt (58), nếu quá giới hạn ấy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 73 giới chế
ra nam căn. Nếu Tỳ kheo ni dùng hồ giao làm nam căn thì phạm Ba dật đề.
Thứ 74 giới
cùng vỗ với nhau. Nếu Tỳ kheo ni vỗ nhau thì phạm Ba dật đề.
Thứ 75 giới
bưng nước và quạt. Nếu Tỳ kheo ni đối với Tỳ kheo không bịnh mà khi vị ấy ăn,
mình bưng nước, đứng trước mặt lấy quạt mà quạt, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 76 giới xin
cho lúa sống. Nếu Tỳ kheo ni xin lúa sống (59) thì phạm Ba dật đề.
Thứ 77 giới
tiện lợi trên cỏ. Nếu Tỳ kheo ni trên cỏ tươi mà đại tiện tiểu tiện thì phạm Ba
dật đề.
Thứ 78 giới đổ
bậy đồ dơ. Nếu Tỳ kheo ni ban đêm đại tiện tiểu tiện trong đồ chứa, sáng sớm
không nhìn ngoài tường mà đổ xuống, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 79 giới xem
nghe kỹ nhạc. Nếu Tỳ kheo ni đi xem nghe kỹ nhạc (60) thì phạm Ba dật đề.
Thứ 80 giới
đứng khuất trong xóm. Nếu Tỳ kheo ni vào trong làng xóm, cùng với người nam
đứng và nói chuyện ở chỗ khuất, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 81 giới đi
vào chỗ khuất. Nếu Tỳ kheo ni cùng với người nam đi vào chỗ khuất và có vật
ngăn che, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 82 giới
đứng chung nói thầm. Nếu Tỳ kheo ni vào trong làng trong hẻm, bảo bạn đi xa đi,
rồi cùng người nam ở chỗ khuất, đứng chung và kề tai mà nói, thì phạm Ba dật
đề.
Thứ 83 giới
không nói mà đi. Nếu Tỳ kheo ni vào ngồi nhà cư sĩ, rồi bỏ đi mà không nói với
chủ nhân, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 84 giới
không nói mà ngồi. Nếu Tỳ kheo ni vào trong nhà cư sĩ, không nói với chủ nhân
mà ngồi liền xuống giường ghế, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 85 giới
không nói mà ngủ. Nếu Tỳ kheo ni vào trong nhà cư sĩ, không nói với chủ nhân,
liền tự sắp chỗ mà ngồi, ngủ, nghỉ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 86 giới
cùng vào nhà tối. Nếu Tỳ kheo ni cùng người nam vào trong nhà tối, thì phạm Ba
dật đề.
Thứ 87 giới
không rõ lời nghe. Nếu Tỳ kheo ni không thẩm định lời nói mình tiếp nhận mà đã
nói ngay với người khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 88 giới
việc nhỏ mà thề. Nếu Tỳ kheo ni có lý do hay sự việc nhỏ nhặt mà liền thề đọa
ác đạo, không sinh trong Phật pháp (60b), rằng nếu tôi có việc như vậy thì đọa
ác đạo, không sinh trong Phật pháp, nếu cô có việc như vậy thì cũng đọa ác đạo,
không sinh trong Phật pháp. Thề như vậy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 89 giới đấm
ngực khóc la. Nếu Tỳ kheo ni tranh cãi với người khác vì không khéo nhớ sự việc
tranh cãi, rồi đấm ngực khóc la, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 90 giới
không bịnh nằm chung. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh mà 2 người nằm chung 1 giường
thì phạm Ba dật đề.
Thứ 91 giới nằm
chung chăn nệm. Nếu Tỳ kheo ni nằm chung một nệm, cùng một chăn, thì, trừ
trường hợp khác (61), phạm Ba dật đề.
Thứ 92 giới hỏi
để quấy rối. Nếu Tỳ kheo ni biết người ở trước mình đến sau, biết người đến sau
mình ở trước, vì quấy rầy người ấy nên ở trước mặt họ mà tụng kinh, hỏi nghĩa,
chỉ dạy, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 93 giới
không trông nom bịnh. Nếu Tỳ kheo ni có Tỳ kheo ni sống chung bị bịnh mà không
trông nom, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 94 giới an
cư mà đuổi. Nếu Tỳ kheo ni đầu an cư thì cho các Tỳ kheo ni khác đặt giường
trong phòng mình, sau đó tức giận đuổi ra, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 95 giới ba
mùa du hành. Nếu Tỳ kheo ni mùa xuân mùa hạ mùa đông, tất cả các mùa đều du
hành dân gian, thì, trừ lý do trường hợp khác (62), phạm Ba dật đề.
Thứ 96 giới an
cư rồi ở. Nếu Tỳ kheo ni kiết hạ an cư rồi mà không ra đi (63), thì phạm Ba dật
đề.
Thứ 97 giới đi
ngoài khu vức. Nếu Tỳ kheo ni ngoài khu vức có chỗ nghi là đáng sợ, vậy mà vẫn
đi vào dân gian, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 98 giới đi
trong khu vức. Nếu Tỳ kheo ni trong khu vức có chỗ nghi là đáng sợ, vậy mà vẫn
đi vào dân gian, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 99 giới
thân cận cư sĩ. Nếu Tỳ kheo ni thân thiết với cư sĩ và con cư sĩ, sống chung,
rồi làm hạnh bất tùy thuận. Các Tỳ kheo ni khác can gián Tỳ kheo ni ấy, rằng đại
tỷ, đừng có thân thiết với cư sĩ và con cư sĩ, sống chung, rồi làm hạnh bất tùy
thuận. Đại tỷ hãy sống riêng. Sống riêng thì trong Phật pháp sẽ có đời sống
tăng ích và yên vui. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni khác can gián như
vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni khác nên can gián đến lần thứ
3, vì để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì
tốt, nếu không bỏ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 100 giới đi
xem hoàng cung. Nếu Tỳ kheo ni đến xem hoàng cung với điện đường sơn vẽ, vườn
rừng hồ tắm, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 101 giới
khỏa thân tắm sông. Nếu Tỳ kheo ni khỏa thân tắm trong nước sông, nước suối,
nước kênh, nước hồ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 102 giới
khăn tắm quá cỡ. Nếu Tỳ kheo ni làm khăn tắm thì phải làm đúng cỡ. Làm đúng cỡ
là dài bằng 6 gang tay của Phật, rộng bằng 2 gang rưỡi. Nếu quá cỡ ấy thì phạm
Ba dật đề.
Thứ 103 giới
may y quá ngày. Nếu Tỳ kheo ni may y Tăng già lê quá 5 ngày thì, trừ xin y Tăng
già lê, xả y công đức, hay 6 nạn xảy ra (64), phạm Ba dật đề.
Thứ 104 giới
không coi sóc y. Nếu Tỳ kheo ni quá 5 ngày (65) không coi sóc y Tăng già lê,
thì phạm Ba dật đề.
Thứ 105 giới
cản ngăn cúng y. Nếu Tỳ kheo ni ngăn cản cúng y cho chư tăng thì phạm Ba dật
đề.
Thứ 106 giới
mang y không hỏi. Nếu Tỳ kheo ni không hỏi người có y mà tự tiện mang y của họ
thì phạm Ba dật đề.
Thứ 107 giới
cho ngoại đạo y. Nếu Tỳ kheo ni cầm y Sa môn mà cho ngoại đạo hay cư sĩ thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 108 giới
cản tăng chia y. Nếu Tỳ kheo ni vì sợ đệ tử không được phần nên có ý thức ngăn
cản chư tăng chia y đúng phép, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 109 giới
khiến tăng không xả. Nếu Tỳ kheo ni vì muốn hưởng lâu 5 sự, nên có ý thức làm
cho chư tăng hiện không xả y công đức, để sau sẽ xả, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 110 giới
ngăn cản ni tăng. Nếu Tỳ kheo ni vì muốn hưởng lâu 5 sự, nên có ý thức ngăn cản
Tỳ kheo ni tăng xả công đức y, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 111 giới
không diệt tranh cãi. Nếu Tỳ kheo ni có Tỳ kheo ni khác nói với, rằng xin diệt
trừ sự tranh cãi ấy cho tôi, vậy mà Tỳ kheo ni ấy không thực thi phương tiện gì
để diệt trừ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 112 giới
cho ngoại đạo ăn. Nếu Tỳ kheo ni tự tay đưa thức ăn cho cư sĩ và ngoại đạo ăn
thì phạm Ba dật đề.
Thứ 113 giới
làm người sai phái. Nếu Tỳ kheo ni làm người sai sử cho cư sĩ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 114 giới xe
chỉ đánh sợi. Nếu Tỳ kheo ni tự tay xe chỉ đánh sợi thì phạm Ba dật đề.
Thứ 115 giới
nằm ngồi giường người. Nếu Tỳ kheo ni vào trong nhà cư sĩ mà ngồi hay nằm trên
giường nhỏ giường lớn của họ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 116 giới
ngủ rồi không từ. Nếu Tỳ kheo ni đến nhà cư sĩ bảo chủ nhân sắp chỗ để ngủ lại,
sáng ngày đi mà không cáo từ chủ nhân, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 117 giới
tụng tập chú thuật. Nếu Tỳ kheo ni tụng tập chú thuật của thế tục, thì phạm Ba
dật đề.
Thứ 118 giới
dạy tập chú thuật. Nếu Tỳ kheo ni chỉ dạy cho người tụng tập chú thuật của thế
tục, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 119 giới độ
người có thai. Nếu Tỳ kheo ni biết phụ nữ mang thai mà vẫn độ cho lãnh thọ cụ
túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 120 giới độ
người con bú. Nếu Tỳ kheo ni biết phụ nữ có con còn bú mà vẫn cho lãnh thọ cụ
túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 121 giới độ
người thiếu tuổi. Nếu Tỳ kheo ni biết thiếu nữ tuổi chưa đầy 20 mà vẫn cho lãnh
thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 122 giới
không cho học giới. Nếu Tỳ kheo ni đối với thiếu nữ tuổi đã 18, không cho họ 2
năm học giới, cứ tuổi đủ 20 là cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 123 giới
không cho 6 pháp. Nếu Tỳ kheo ni đối với thiếu nữ tuổi đã 18, cho 2 năm học
giới mà không cho 6 pháp, cứ tuổi đủ 20 là cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm
Ba dật đề.
Thứ 124 giới
không cho cứ thọ. Nếu Tỳ kheo ni đối với thiếu nữ tuổi đã 18, cho 2 năm học
giới, cho 6 pháp, tuổi đủ 20, nhưng chư tăng không cho (66) mà mình vẫn cho
liền lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 125 giới
thiếu năm cho thọ. Nếu Tỳ kheo ni độ cho người nữ đã kết hôn, thì 10 năm mới
cho 2 năm học giới; đủ 12 năm (67) như vậy mới cho lãnh thọ cụ túc giới. Nếu
dưới 12 năm mà cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 126 giới
không thưa mà cho. Nếu Tỳ kheo ni độ cho người nữ đã kết hôn, cho 2 năm học
giới, nghĩa là đủ 12 năm rồi, nhưng không tác bạch chư tăng mà vẫn cho liền
lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 127 giới độ
cho người xấu. Nếu Tỳ kheo ni biết nữ nhân là người như vậy như vậy (68) mà vẫn
cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 128 giới độ
người trái phép. Nếu Tỳ kheo ni độ nhiều đệ tử, không dạy 2 năm học giới, không
đem 2 pháp (69) nhiếp hóa, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 129 giới
không nương tựa thầy. Nếu Tỳ kheo ni không có 2 năm theo hòa thượng ni, thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 130 giới
không cho mà thọ. Nếu Tỳ kheo ni chư tăng không cho mà vẫn truyền thọ cụ túc
giới cho người, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 131 giới
chưa đủ truyền giới. Nếu Tỳ kheo ni tuổi hạ chưa đủ 12 năm mà truyền thọ cụ túc
giới cho người, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 132 giới
không cho mà truyền. Nếu Tỳ kheo ni tuổi hạ đã đủ 12 năm, nhưng chư tăng không
cho mà vẫn tự tiện truyền thọ cụ túc giới cho người, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 133 giới
phỉ báng không cho. Nếu Tỳ kheo ni chư tăng không cho truyền thọ cụ túc giới
cho người, liền nói chư tăng có tham có sân có si có sợ, muốn cho thì cho, muốn
không thì không, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 134 giới
không được đồng ý. Nếu Tỳ kheo ni, cha mẹ hay chồng của nữ nhân không đồng ý,
mà mình vẫn cho nữ nhân ấy lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 135 giới độ
cho đang yêu. Nếu Tỳ kheo ni biết thiếu nữ đang yêu mến thiếu niên thanh niên
nào đó, rồi biến thành thiếu nữ sầu muộn cáu kỉnh, mà vẫn độ cho xuất gia, lãnh
thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 136 giới
không cho thọ giới. Nếu Tỳ kheo ni nói với Thức xoa ma na, rằng cô em, hãy bỏ
cái này, hãy học cái kia, tôi sẽ cho cô em lãnh thọ cụ túc giới. Nói như vậy mà
nếu sau đó không tìm cách cho Thức xoa ma na kia lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm
Ba dật đề.
Thứ 137 giới
nhận mà không cho. Nếu Tỳ kheo ni nói với Thức xoa ma na, rằng đem y đến cúng
cho tôi, tôi sẽ cho cô em lãnh thọ cụ túc giới. Nói như vậy mà rồi không tìm
cách cho Thức xoa ma na kia lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 138 giới
truyền giới mau quá. Nếu Tỳ kheo ni chưa đủ 12 tháng nữa mà đã truyền thọ cụ
túc giới cho người khác nữa, thì phạm Ba dật đề (70).
Thứ 139 giới để
cách 1 đêm. Nếu Tỳ kheo ni cho người lãnh thọ cụ túc giới rồi, để qua 1 đêm mới
đến giữa Tỳ kheo tăng cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 140 giới
không thọ giáo thọ. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh mà không đến lãnh thọ sự giáo thọ
của Tỳ kheo, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 141 giới
không cầu giáo thọ. Nếu Tỳ kheo ni thì nửa tháng phải đến Tỳ kheo tăng mà cầu
giáo thọ. Nếu không cầu thì phạm Ba dật đề.
Thứ 142 giới
không cầu tự tứ. Nếu Tỳ kheo ni tăng thì kiết hạ an cư rồi, phải đến giữa Tỳ
kheo tăng cầu 3 sự tự tứ, đó là thấy, nghe, nghi. Nếu không thì phạm Ba dật đề.
Thứ 143 giới an
cư không tăng. Nếu Tỳ kheo ni ở chỗ không có Tỳ kheo mà kiết hạ an cư, thì phạm
Ba dật đề.
Thứ 144 giới
không thưa vào chùa. Nếu Tỳ kheo ni biết Tăng già lam có Tỳ kheo, không thưa mà
vào, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 145 giới mạ
lị Tỳ kheo. Nếu Tỳ kheo ni mắng Tỳ kheo thì phạm Ba dật đề.
Thứ 146 giới
tranh cãi không nhớ. Nếu Tỳ kheo ni ưa tranh cãi vì không khéo nhớ sự việc
tranh cãi, sau đó giận dữ không vui, mắng Tỳ kheo ni chúng, thì phạm Ba dật đề
Thứ 147 giới mổ
nhọt không thưa. Nếu Tỳ kheo ni thân thể sinh ung nhọt và các thứ ghẻ chốc,
không bạch trong chúng, không nói với ai, mà nhờ liền người nam mổ hay băng,
thì phạm Ba dật đề.
Thứ 148 giới ăn
rồi ăn nữa. Nếu Tỳ kheo ni trước nhận lời thỉnh mời, ăn đủ rồi, sau đó lại ăn
cơm, miến, cơm chiên (71), thì phạm Ba dật đề.
Thứ 149 giới
ganh ghét với thầy. Nếu Tỳ kheo ni đối với thầy (72) mình mà sinh tâm ganh
ghét, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 150 giới
hương liệu xoa mình. Nếu Tỳ kheo ni dùng hương liệu mà xoa xát thân thể, thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 151 giới
dầu mè xoa mình. Nếu Tỳ kheo ni lấy cặn dầu mè (73) mà xoa xát thân thể, thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 152 giới
bảo đồng giới xoa. Nếu Tỳ kheo ni bảo Tỳ kheo ni xoa xát thân thể thì phạm Ba
dật đề.
Thứ 153 giới
bảo Thức xoa xoa. Nếu Tỳ kheo ni bảo Thức xoa ma na xoa xát thân thể, thì phạm
Ba dật đề.
Thứ 154 giới sa
di ni xoa. Nếu Tỳ kheo ni bảo sa di ni xoa xát thân thể thì phạm Ba dật đề.
Thứ 155 giới
bảo phụ nữ xoa. Nếu Tỳ kheo ni bảo vợ hay con gái của cư sĩ xoa xát thân thể,
thì phạm Ba dật đề.
Thứ 156 giới
dùng quần lót dày (74). Nếu Tỳ kheo ni mặc quần lót độn dày thì phạm Ba dật đề.
Thứ 157 giới
sắm đồ trang điểm. Nếu Tỳ kheo ni cất chứa đồ trang điểm thân thể của phụ nữ,
thì, trừ lý do trường hợp khác, phạm Ba dật đề.
Thứ 158 giới
mang dép cầm dù. Nếu Tỳ kheo ni đi mà mang dày da và cầm dù, thì, trừ lý do
trường hợp khác, phạm Ba dật đề.
Thứ 159 giới
không bịnh đi xe. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh mà đi xe, thì, trừ lý do trường hợp
khác, phạm Ba dật đề.
Thứ 160 giới
không mặc tăng kỳ (75). Nếu Tỳ kheo ni không mặc tăng kỳ chi mà đi vào làng
xóm, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 161 giới
tối đến nhà người. Nếu Tỳ kheo ni sắp tối đến nhà cư sĩ mà trước đó không được
mời gọi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 162 giới
tối mở cửa chùa. Nếu Tỳ kheo ni sắp tối mở cửa chùa đi ra mà không dặn Tỳ kheo
ni khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 163 giới
trời lặn mở cửa. Nếu Tỳ kheo ni mặt trời lặn rồi, mở cửa chùa đi ra mà không
dặn lại ai cả, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 164 giới
không có an cư. Nếu Tỳ kheo ni không tiền an cư, không hậu an cư, thì phạm Ba
dật đề.
Thứ 165 giới
truyền giới thường xuất. Nếu Tỳ kheo ni biết nữ nhân thường xuất đại tiểu mũi
giãi, mà vẫn truyền thọ cho cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 166 giới
truyền giới hai hình. Nếu Tỳ kheo ni biết là người hai hình mà vẫn cho lãnh thọ
cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 167 giới
truyền giới hợp một. Nếu Tỳ kheo ni biết là người 2 đường hợp một mà vẫn cho
lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 168 giới
truyền giới nợ bịnh. Nếu Tỳ kheo ni biết là người nợ nần, là người bịnh hoạn,
mà vẫn cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 169 giới
thuật số (76) để sống. Nếu Tỳ kheo ni học tập thuật số thế tục để tự mưu sinh,
thì phạm Ba dật đề.
Thứ 170 giới
chỉ dạy thuật số. Nếu Tỳ kheo ni đem thuật số thế tục chỉ dạy cho cư sĩ, thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 171 giới bị
đuổi không đi. Nếu Tỳ kheo ni bị trục xuất mà không ra đi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 172 giới
không cầu mà hỏi. Nếu Tỳ kheo ni muốn hỏi nghĩa lý Phật pháp nơi vị Tỳ kheo,
trước hết không cầu xin cho phép mà cứ hỏi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 173 giới
chọc tức quấy rối. Nếu Tỳ kheo ni biết người ở trước mình đến sau, biết người
đến sau mình ở trước, muốn quấy rầy người ấy nên ở trước mặt họ mà kinh hành,
mà đứng, ngồi, nằm, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 174 giới
xây tháp chùa tăng. Nếu Tỳ kheo ni biết là chùa có Tỳ kheo mà xây tháp cho Tỳ
kheo ni ở đó, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 175 giới
khinh tân Tỳ kheo. Nếu Tỳ kheo ni thấy vị Tỳ kheo mới thọ cụ túc giới, lẽ đáng
đứng dậy, đón rước, cung kính, lễ bái, hỏi han, mời ngồi; không làm như vậy thì
phạm Ba dật đề.
Thứ 176 giới đi
mà làm dáng. Nếu Tỳ kheo ni vì làm dáng cho đẹp nên lắc mình rảo bước (77) mà
đi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 177 giới
dùng đồ trang sức. Nếu Tỳ kheo ni dùng (78) đồ trang sức của phụ nữ, dùng hương
liệu xoa mình, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 178 giới
nhờ ngoại đạo nữ. Nếu Tỳ kheo ni nhờ nữ nhân ngoại đạo xoa xát hương liệu vào
mình, thì phạm Ba dật đề.
Bạch chư đại
tỷ, tôi đã nói 178 giới Ba dật đề. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 178 giới ấy có
thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 178 giới ấy các vị
thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
Bạch chư đại
tỷ, 8 giới Ba la đề đề xá ni (79) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần,
và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới
không bịnh kiếm tô (80). Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm sữa tô mà ăn, thì phạm
vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch
rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm,
nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 2 giới
không bịnh kiếm dầu. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm dầu mà ăn, thì phạm vào
cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng,
thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin
hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 3 giới
không bịnh kiếm mật. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm mật mà ăn, thì phạm vào
cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng,
thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin
hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 4 giới
không bịnh kiếm đường. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm đường phèn mà ăn, thì
phạm vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà
bạch rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng
làm, nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 5 giới
không bịnh kiếm sữa. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm sữa mà ăn, thì phạm vào
cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến trước Tỳ kheo ni khác mà bạch
rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm,
nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 6 giới
không bịnh kiếm lạc. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm sữa lạc mà ăn, thì phạm
vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến trước Tỳ kheo ni khác mà
bạch rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng
làm, nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 7 giới
không bịnh kiếm cá (81). Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm cá mà ăn, thì phạm vào
cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng,
thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin
hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 8 giới
không bịnh kiếm thịt. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm thịt mà ăn, thì phạm vào
cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng,
thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin
hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Bạch chư đại
tỷ, tôi đã nói 8 giới Ba la đề đề xá ni. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 8 giới
ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 8 giới ấy các vị
thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
Bạch chư đại
tỷ, 100 giới phải học (82) sau đây, cứ mỗi nửa tháng phải tụng một lần, và được
rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1. Nên mặc
nội y cho tề chỉnh, phải học.
Thứ 2. Nên mặc
5 y cho tề chỉnh, phải học.
Thứ 3. Không
được vắt trái y đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 4. Không
được vắt trái y ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 5. Không
được quấn y nơi cổ vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 6. Không
được quấn y nơi cổ ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 7. Không
được trùm đầu vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 8. Không
được trùm đầu ngồi nhà cư sĩ, phải học (83).
Thứ 9. Không
được vừa đi vừa nhảy vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 10. Không
được vừa đi vừa nhảy ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 11. Không
được ngồi xoạc đùi (84) trong nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 12. Không
được chống nạnh đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 13. Không
được chống nạnh ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 14. Không
được lắc mình đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 15. Không
được lắc mình ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 16. Không
được vung tay đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 17. Không
được vung tay đi vào ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 18. Khéo
che mình kín đáo vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 19. Khéo
che mình kín đáo ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 20. Không
được nhìn bên này liếc bên kia đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 21. Không
được nhìn bên này liếc bên kia ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 22. Yên
lặng vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 23. Yên
lặng ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 24. Không
được giỡn cười đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 25. Không
được giỡn cười ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 26. Chú ý
khi ăn (85), phải học.
Thứ 27. Lấy cơm
chỉ ngang miệng bát mà ăn, phải học.
Thứ 28. Cả đồ
ăn (86) nữa cũng chỉ lấy ngang miệng bát mà ăn, phải học.
Thứ 29. Đồ ăn
và cơm phải lấy tương đương với nhau, phải học.
Thứ 30. Tuần tự
mà ăn (87), phải học.
Thứ 31. Không
được moi xốc giữa bát mà ăn, phải học.
Thứ 32. Không
bịnh thì không được tự hỏi cơm và đồ ăn cho mình, phải học.
Thứ 33. Không
được lấy cơm đậy đồ ăn lại để mong có đồ ăn nữa, phải học.
Thứ 34. Không
được liếc xem trong bát Tỳ kheo ni ngồi bên cạnh, phải học.
Thứ 35. Phải để
ý nơi bát mà ăn, phải học.
Thứ 36. Không
được dồn cơm lớn miếng mà ăn, phải học.
Thứ 37. Không
được hả lớn miệng để chờ cơm mà ăn, phải học.
Thứ 38. Không
được ngậm cơm mà nói chuyện, phải học.
Thứ 39. Không
được nắm cơm ngoài xa ném vào miệng, phải học.
Thứ 40. Không
được ăn mà còn sót lại (88), phải học.
Thứ 41. Không
được bung má mà ăn, phải học.
Thứ 42. Không
được nhai (88b) ra tiếng mà ăn, phải học.
Thứ 43. Không
được hớp cơm mà ăn, phải học.
Thứ 44. Không
được le lưỡi liếm mà ăn, phải học.
Thứ 45. Không
được rảy tay mà ăn, phải học.
Thứ 46. Không
được lượm cơm rơi mà ăn, phải học.
Thứ 47. Không
được tay dơ cầm đồ đựng nước uống, phải học.
Thứ 48. Không
được đổ nước rửa bát trong nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 49. Không
được đại tiện tiểu tiện, hỷ nhổ trên cỏ tươi, trừ lúc có bịnh, phải học.
Thứ 50. Không
được đại tiện tiểu tiện, hỷ nhổ vào nước sạch, trừ lúc có bịnh, phải học.
Thứ 51. Không
được đứng mà đại tiện tiểu tiện, trừ lúc có bịnh, phải học.
Thứ 52. Không
được thuyết pháp cho người vắt áo lên vai, không cung kính, trừ lúc họ có bịnh,
phải học.
Thứ 53. Không
được thuyết pháp cho người quấn áo nơi cổ, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 54. Không
được thuyết pháp cho người che đầu, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 55. Không
được thuyết pháp cho người trùm đầu, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 56. Không
được thuyết pháp cho người chống nạnh, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 57. Không
được thuyết pháp cho người mang dép da, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 58. Không
được thuyết pháp cho người mang guốc gỗ, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 59. Không
được thuyết pháp cho người cưỡi ngựa, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 60. Không
được ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ ra để coi giữ, phải học.
Thứ 61. Không
được cất giấu của cải trong tháp Phật, trừ ra để cho chắc chắn, phải học.
Thứ 62. Không
được mang dép da vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 63. Không
được cầm dép da vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 64. Không
được mang dép da đi nhiễu quanh tháp Phật, phải học.
Thứ 65. Không
được mang dày ủng vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 66. Không
được cầm dày ủng vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 67. Không
được ngồi ăn nơi tháp Phật mà xả rác và thức ăn làm dơ đất, phải học.
Thứ 68. Không
được khiêng thây chết đi qua tháp Phật, phải học.
Thứ 69. Không
được chôn thây chết nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 70. Không
được đốt thây chết nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 71. Không
được hướng về tháp Phật mà đốt thây chết, phải học.
Thứ 72. Không
được đốt thây chết bốn phía tháp Phật để hơi hôi bay vào, phải học.
Thứ 73. Không
được mang áo và giường người chết đi qua tháp Phật, trừ ra đã giặt, nhuộm và
xông hương, phải học.
Thứ 74. Không
được đại tiện tiểu tiện nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 75. Không
được hướng về tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện, phải học.
Thứ 76. Không
được đại tiện tiểu tiện bốn phía tháp Phật để hơi thối bay vào, phải học.
Thứ 77. Không
được mang ảnh tượng của Phật đến chỗ đại tiện tiểu tiện, phải học.
Thứ 78. Không
được ở nơi tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 79. Không
được hướng về tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 80. Không
được bốn phía tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 81. Không
được nơi tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 82. Không
được hướng về tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 83. Không
được bốn phía tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 84. Không
được ngồi duỗi chân trước tháp Phật, phải học.
Thứ 85. Không
được để tượng Phật ở phòng dưới còn mình ở phòng trên, phải học.
Thứ 86. Người
ngồi mà mình đứng thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh,
phải học.
Thứ 87. Người
nằm mà mình ngồi thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải
học.
Thứ 88. Người
ngồi ghế mà mình ngồi chỗ không phải ghế thì không được thuyết pháp cho họ, trừ
ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 89. Người
ngồi chỗ cao mà mình ngồi chỗ thấp thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra
lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 90. Người
đi trước mà mình đi sau thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có
bịnh, phải học.
Thứ 91. Người ở
chỗ kinh hành cao mà mình ở chỗ kinh hành thấp thì không được thuyết pháp cho
họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 92. Người
đi giữa đường mà mình đi lề đường thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc
họ có bịnh, phải học.
Thứ 93. Không
được dắt tay nhau mà đi đường, phải học.
Thứ 94. Không
được trèo cây cao quá đầu người, trừ trường hợp có lý do, phải học.
Thứ 95. Không
được đựng bát vào đãy, xâu vào đầu tích trượng rồi vác trên vai mà đi, phải
học.
Thứ 96. Người
cầm gậy, không cung kính, thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có
bịnh, phải học.
Thứ 97. Người
cầm kiếm thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 98. Người
cầm mâu thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 99. Người
cầm đao thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 100. Người
che dù thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Bạch chư đại
tỷ, tôi đã nói các giới phải học. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong các giới ấy có
thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong các giới ấy các vị
thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
Bạch chư đại
tỷ, 7 pháp Diệt tránh (89) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được
rút ra từ trong Giới kinh. Nếu các Tỳ kheo ni có sự tranh cãi nổi lên thì phải
diệt trừ liền.
Thứ 1. Đáng cho
hiện tiền tỳ ni thì nên cho hiên tiền tỳ ni.
Thứ 2. Đáng cho
ức niệm tỳ ni thì nên cho ức niệm tỳ ni.
Thứ 3. Đáng cho
bất si tỳ ni thì nên cho bất si tỳ ni.
Thứ 4. Đáng cho
tự nói xử trị thì nên cho tự nói xử trị.
Thứ 5. Đáng cho
xét tìm tội tướng thì nên cho xét tìm tội tướng.
Thứ 6. Đáng cho
nhiều người xét tìm thì nên cho nhiều người xét tìm.
Thứ 7. Đáng cho
như cỏ che đất thì nên cho như cỏ che đất.
Bạch chư đại
tỷ, tôi đã nói 7 pháp Diệt tránh. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 7 pháp ấy có
thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 7 pháp ấy các vị thanh
tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
Bạch chư đại
tỷ, tôi đã nói lời nói đầu của Giới kinh, đã nói 8 giới Ba la di, đã nói 17
giới Tăng già bà thi sa, đã nói 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề, đã nói 178 giới Ba
dật đề, đã nói 8 giới Ba la đề đề xá ni, đã nói 100 giới chúng học, đã nói 7
pháp Diệt tránh. Tất cả giới điều như vậy là Giới kinh Phật dạy, cứ mỗi nửa
tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh. Còn những Phật pháp
khác nữa thì, với những Phật pháp ấy, hãy chung cùng hòa hợp mà học.
10/ Phần Cuối Tỳ kheo Ni Giới
Đức tính nhẫn
nhục
là đạo bậc
nhất,
Phật nói vô vi
là pháp tối
thượng;
là người xuất
gia
mà bức não
người,
thì không được
gọi
là bậc Sa môn.
Bài tụng này là
Giới kinh được thuyết ra bởi đức Tỳ Bà Thi, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng
chánh biến tri.
Ví dụ như người
có đôi mắt
sáng,
mới có khả năng
tránh đường
hiểm nghèo;
thế giới mà có
những người
thông minh,
thì có khả năng
xa rời điều ác.
Bài tụng này là
Giới kinh được thuyết ra bởi đức Thi Khí, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng
chánh biến tri.
Không hề phỉ
báng
cũng không ganh
ghét,
và hãy kính cẩn
tuân hành giới
pháp,
bằng cách ăn
uống
cũng biết vừa
đủ,
thường thường
thích thú
ở chỗ thanh
vắng,
tâm trí định
tĩnh
ưa thích tinh
tiến,
đó là những
điều
chư Phật huấn
dụ.
Bài tụng này là
Giới kinh được thuyết ra bởi đức Tỳ Diệp La, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng
chánh biến tri.
Ví như loài ong
hút lấy mật hoa
thì không
thương tổn
sắc hương của
hoa
mà chỉ hút lấy
cái vị mật
ngọt,
Tỳ kheo cũng
vậy
đi vào làng xóm
thì không can
dự
công việc người
khác,
không nhìn đáng
làm
hay không đáng
làm,
mà chỉ tự nhìn
bản thân mà đi
coi có ngay
thẳng
hay không ngay
thẳng.
Bài tụng này là
Giới kinh được thuyết ra bởi đức Câu Lưu Tôn, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng
chánh biến tri.
Tâm trí không
nên
có sự phóng
dật,
pháp của bậc
thánh
phải siêng học
tập;
được như thế ấy
không còn lo
buồn,
tâm trí ổn định
nhập vào niết
bàn.
Bài tụng này là
Giới kinh được thuyết ra bởi đức Câu Na Hàm Mâu Ni, đấng Như Lai, đấng vô
trước, đấng chánh biến tri.
Tất cả điều ác
đừng có làm
đến,
tất cả điều
thiện
kính cẩn mà
làm,
tự mình làm
sạch
tâm trí của
mình,
những điều như
vậy
là chư Phật
dạy.
Bài tụng này là
Giới kinh được thuyết ra bởi đức Ca Diếp, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng
chánh biến tri.
Khéo léo mà giữ
miệng lưỡi lời
tiếng,
tự mình làm
sạch
tâm trí của
mình,
và thân thể nữa
cũng đừng làm
ác,
đó là đường
sạch
của cả ba
nghiệp;
khả năng đạt
được
đường sạch như
vậy
chính là đường
đi
của bậc đại
tiên.
Bài tụng này là
Giới kinh của đức Thích Ca Mâu Ni, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến
tri, thuyết ra cho chư tăng không có mọi sự tội lỗi trong 12 năm. Từ đó về sau
chỉ là phân tích phong phú Giới kinh này.
Chư vị Tỳ kheo
ni, những ai ưa thích giáo pháp và ưa thích Sa môn, những ai có sự hổ thẹn lấy
mình và có sự hổ thẹn với người, ưa thích học giới pháp, thì phải học các Giới
kinh này.
Những người
minh triết
giữ được giới
pháp,
thì thực hiện
được
ba thứ vui
thích,
một là danh
thơm
hai là lợi quí
ba là chết rồi
sinh lên chư
thiên.
Cần phải cứu
xét
cái điều này
đây,
mà người có trí
nên giữ giới
pháp.
Giới mà trong
sạch
lại có tuệ
giác,
thì thực hiện
được
cái đạo bậc
nhất.
Tất cả Phật đà
trong thì quá
khứ
cùng chư Thế
Tôn
hiện tại vị lai
chiến thắng lo
buồn,
là do cùng nhau
tôn kính giới
pháp,
và chính điều
này
là cái nguyên
tắc
của chư Phật
đà.
Nếu có người
nào
biết tự vì mình
mà tìm đường đi
của chư Phật
đà,
thì hãy tôn
trọng
đối với chánh
pháp,
đó là huấn thị.
của chư Như
Lai.
Bảy đức Phật đà
là đấng Thế
Tôn,
đã trừ diệt hết
mọi thứ kiết
sử,
và đã thuyết ra
bảy bản Giới
kinh,
làm cho giải
thoát
mọi thứ ràng
buộc,
làm cho nhập
vào
niết bàn tối
thượng,
ở đó vĩnh viễn
diệt sạch hý
luận.
Tôn trọng tuân
hành
Giới kinh Phật
nói,
cùng với giới
pháp
hiền thánh ca
tụng,
con em của Phật
mà làm như vậy
thì sẽ nhập vào
niết bàn tịch
diệt.
Khi đức Thế Tôn
sắp nhập niết
bàn,
Ngài đã nổi dậy
lòng thường to
lớn,
chiêu tập đầy
đủ
chư vị Tỳ kheo,
và dạy như vầy
đối với giới
pháp:
Chư vị đừng nói
Như Lai nhập
diệt
thì không ai
giữ
cho người thanh
tịnh;
Như Lai đã khéo
nói ra Giới
kinh,
Như Lai lại
khéo
nói ra giới
pháp,
dẫu rằng Như
Lai
nhập vào niết
bàn,
chư vị hãy coi
Giới ấy như
Phật.
Giới kinh tồn
tại
lâu dài trong
đời,
thì Pháp của
Phật
sẽ được hưng
thịnh,
và Pháp của Phật
mà hưng thịnh
lên,
thì làm cho
người
được nhập niết
bàn.
Nếu không tuân
giữ
giới pháp như
vầy,
và không đúng
phép
cử hành Bố tát,
thì như mặt
trời
đến lúc lặn
mất,
cả thế giới này
tối tăm mịt mù.
Hãy cố mà giữ
giới pháp như
vầy,
như bò đuôi dài
tiếc giữ đuôi
nó,
bằng cách hòa
hợp
tập hợp thuyết
giới,
đúng như Phật
đà
đã từng huấn
dụ.
Tôi đã thành
kính
tụng lại Giới
kinh,
chư tăng cũng
đã
Bố tát hoàn
tất.
Tôi tụng giới
kinh
được bao công
đức,
nguyện hiến
chúng sinh
cùng thành Phật
đạo.
Ghi Chú (1)
Giới kinh ở đây
là Tỳ kheo giới bản và Tỳ kheo ni giới bản. Giới kinh ở đây còn có 2 trường hợp
nữa. Có trường hợp chỉ cho Tứ phần luật. Có trường hợp chỉ cho mỗi bài tụng của
7 đức Phật nói Giới kinh.
Ghi Chú (2)
Chính văn là
thánh pháp tài (tài sản chánh pháp của các vị thánh), thường nói tắt là thánh
tài. Thánh tài có 7 thứ, là tín, giới, tàm, quí, văn, xả, tuệ. Có 7 thứ này thì
gọi là thánh nhân (kinh Niết bàn).
Ghi Chú (3)
Tỳ kheo ni giới
có 7 loại: 1. khiắ, có 8; 2. Tăng tàn, có 17; 3. Xả đọa, có 30; 4. đọa, có 178;
5. hối quá, có 8; 6. học, có 100; 7. Diệt tránh, có 7. Chính văn này chỉ đưa ra
3 loại, là nói tắt.
Ghi Chú (4)
Dịch đúng chính
văn là nói việc ấy cho tôi. Chính văn này không chỉnh. Ở đây là các đức Phật
đều nói Giới kinh.
Ghi Chú (5)
Giới luật của
dị giáo, ngoại đạo.
Ghi Chú (6)
Đại khái gửi
lời thưa rằng mình cũng muốn Bố tát và trong nửa tháng vừa qua mình không vi
phạm giới nào.
Ghi Chú (7)
Chính văn là
thời đáo, có nghĩa đến lúc, đúng lúc, thời gian thích hợp.
Ghi Chú (8)
Chỉ cho 37 giác
phần, đặc biệt chỉ cho 8 chánh đạo trong đó.
Ghi Chú (9)
Chính văn là
trì, có nghĩa nắm giữ trong trí, tức là nhớ, ghi nhận.
Ghi Chú (10)
Dịch nghĩa là
khí (bị bỏ ra ngoài tăng chúng), nhưng chính nghĩa là tha thắng (bị chiến
thắng).
Ghi Chú (11)
Sự dâm dục,
Luật gọi là phi phạn hạnh, là bất tịnh hạnh.
Ghi Chú (12)
Không được cùng
tăng chúng Yết ma và thuyết giới.
Ghi Chú (13)
Là hẹn chỗ để
hành dâm. Chính do sự này mà phạm trọng tội.
Ghi Chú (14)
1. Chính văn là
phạm tùy cử cố. Dịch như đã dịch mà không tự tín chính xác. 2. Từ giới thứ 5
xuống đến giới này có sự bất thường. Là cuối mỗi giới có thêm 1 câu. Những câu
này quả là không cần thiết, nên bản Nguyên chiếu lược bỏ.
Ghi Chú (15)
Dịch nghĩa là
Tăng tàn, là phạm những tội này còn có thể cứu vãn được nếu biết sám hối trước
40 vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, không thì cũng như phạm tội Ba la di.
Ghi Chú (16)
Loại Tăng tàn
của Tỳ kheo ni có sự bất thường. Là trong 17 giới, 9 giới trước ghi thêm sơ pháp
ưng xả, 8 giới sau ghi thêm tam pháp ưng xả. Trùng trị cắt nghĩa sơ pháp là mới
làm là phạm (nói cách khác, mới phạm là thành tội), ưng xả là phải bỏ mà đừng
phạm; tam pháp là can gián đến lần thứ 3 mà không bỏ mới là phạm (nói cách
khác, sau 3 lần can gián mới thành tội), ưng xả cũng là phải bỏ mà đừng phạm.
Sơ pháp với tam pháp, cắt nghĩa như vậy là chính xác, còn ưng xả thì không rõ
cắt nghĩa như vậy có chính xác không. Vì 2 câu này chỉ có Trùng trị cắt nghĩa,
nên tôi dịch theo sách ấy.
Ghi Chú (17)
Chính văn là
chủng tánh (dòng họ, giai cấp, thành phần xã hội).
Ghi Chú (18)
Nhiễm thực là
thức ăn xuất từ nhiễm tâm (tâm ô nhiễm: tâm dâm dục).
Ghi Chú (19)
Đủ thì phải nói
phá hoại tăng hòa hợp mà còn chống lại sự can gián. Tăng hòa hợp là 4 vị Tỳ kheo
hay Tỳ kheo ni sắp lên, cùng Yết ma và cùng tụng giới.
Ghi Chú (20)
Là cùng học đức
Phật bổn sư: đức Thích Ca.
Ghi Chú (21)
Đủ thì phải nói
hỗ trợ phá tăng hòa hợp mà còn chống lại sự can gián.
Ghi Chú (22)
Đủ thì phải nói
làm hoen ố tín đồ mà còn chống lại sự can gián.
Ghi Chú (23)
Làm hoen ố tín
đồ, chính văn là ô tha gia (làm bẩn người khác). Ô tha gia có 4 hình thức mà
đứng đầu là đem vật của người này cho mà cho lại người khác, làm cho tâm lý
người nào cũng không còn bình thường. Làm những việc xấu là những việc xấu dẫn
ra từ sự ô tha gia.
Ghi Chú (24)
Hoan hỷ, chính
văn là ma na đỏa, dịch nghĩa là ý hỷ. Ý hỷ là ở sát cạnh chư ni, chân thành ân
hận, làm cho chư ni hoan hỷ mà mình cũng hoan hỷ.
Ghi Chú (25)
Chính văn chỉ
có Tỳ kheo ni. Như vậy là không chỉnh, nên phải bổ túc Tỳ kheo.
Ghi Chú (26)
Trường hợp,
chính văn là thời. Tra 4 bộ Luật khác mới biết chữ ấy, ở đây và nhiều chỗ sau
đây, có nghĩa là trường hợp.
Ghi Chú (27)
Dịch nghĩa là
Xả đọa, là xả thí những vật dụng dư thừa rồi sám hối, nếu không thì sẽ bị đọa
lạc ác đạo.
Ghi Chú (28)
Y công đức (ca
hy na y) là y được xét thưởng sau 3 tháng an cư thanh tịnh. Ai được xét thưởng
thì có 5 tháng (16/7 đến 15/12) được hưởng 5 sự mà Luật đã định.
Ghi Chú (29)
Trường y (y
dài) là dài bằng 8 ngón tay và rộng bằng 4 ngón tay của Phật. Vạn 70/346 nói
trường y là y dư thừa, hễ vải dài 1 thước 6, rộng 8 tấc, thì đã gọi là trường
y.
Ghi Chú (30)
Tịnh thí nghĩa
là cho một cách trong sạch. Tịnh thí ở đây là Tỳ kheo ni có thừa những vật dụng
(như y, bát, v/v) thì phải thí xả. Có 2 cách tịnh thí. Một là chân thật tịnh
thí, là đem vật dụng thừa ra giữa chư tăng mà thí xả cho người khác. Hai là
triển chuyển tịnh thí, là thí xả giữa chư tăng mà nói tên người mình muốn cho.
Nếu người ấy vắng mặt thì chư tăng nói: Đại tỷ đã cho người ấy rồi thì đó là
vật của người ấy; đại tỷ nên cất giữ giúp người ấy, và nếu cần thì mượn mà
dùng.
Ghi Chú (31)
5 y là An đà
hội, Uất đa la tăng, Tăng già lê, tăng kỳ chi, phú kiên; 5 y là của Tỳ kheo ni
dùng. Cũng nên biết chữ Y trong Luật có khi chỉ cho y, có khi chỉ cho áo, quần,
khăn v/v, có khi chỉ cho vải.
Ghi Chú (32)
Yết ma, dịch
nghĩa là tác pháp biện sự. Việc gì của tăng cũng phải do cả tăng quyết định mới
thành tựu, đó gọi là Yết ma. Yết ma có đan bạch, bạch nhị và bạch tứ. Đan bạch
là gặp những việc quá thường xuyên thì chỉ cần 1 lần tuyên cáo (tác bạch, bạch)
mà thôi, không cần hỏi lại. Bạch nhị là gặp những việc hơi quan trọng, sợ xảy
bất đồng ý về sau, nên phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 1 lần. Bạch tứ là gặp
những việc quan trọng thì phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 3 lần. Tăng Yết ma
có 4 loại, đó là 4 vị cho đan bạch, 5 vị cho bạch nhị, 10 vị cho bạch tứ, 20 vị
hay 40 vị cho sự xử tội Tăng tàn. Số lượng này nhiều hơn thì được, thiếu đi thì
không được.
Ghi Chú (33)
Đáng lẽ phải
nói 5 y có cái cũ và hỏng. Nguyên do của giới này là vì có Tỳ kheo ni y Tăng
già lê bị cũ và hỏng.
Ghi Chú (34)
Lời xin tùy ý
là thí chủ có lời xin nói trước rằng người nhận lãnh muốn sao cũng được.
Ghi Chú (35)
Chính văn là
khẩu khả thọ, dịch nhận lấy bằng cách miệng nói được, là theo Danh nghĩa (Vạn
70/347).
Ghi Chú (36)
Đáng lẽ giới
này nên nói đổi chác (mậu) thì đúng hơn, vì bán mua thì là giới thứ 11.
Ghi Chú (37)
Chính văn là
muội.
Ghi Chú (38)
Dịch sát là 10
ngày chưa hết của 3 tháng kiết hạ an cư; 10 ngày ấy là 6/7 đến 15/7.
Ghi Chú (39)
Thì hạn của y
ấy, y ấy là y cúng vội vàng nói trên, thì hạn của y ấy là 1 tháng (16/7 đến
15/8) nếu không thọ công đức y, hoặc 5 tháng (16/7 đến 15/12) nếu có thọ công
đức y.
Ghi Chú (40)
Giới này đến
giới 23 rõ ràng có thể làm 1 giới thôi. Phải dịch rất sát tên giới, là để thấy
khác nhau.
Ghi Chú (41)
Trường bát, có
ý kiến nói là bát dư thừa.
Ghi Chú (42)
Bịnh y ở đây là
vải dùng lúc hành kinh.
Ghi Chú (43)
Thời y và phi
thời y. Y đây cũng có thể là vải. Coi giới thứ 3 thì biết. Thời y (y đúng thời)
là y có trong thời gian 1 tháng (16/7 15/8) hoặc 5 tháng (16/7 15/12). Phi thời
y (y trái thời) là y có trong thời gian không phải thời gian của thời y.
Ghi Chú (44)
Tấm ở đây nhỏ
thì rộng 2 khuỷu tay, lớn thì bằng y ca sa (Vạn 70/348). Áo dày là áo chống
lạnh.
Ghi Chú (45)
Áo mỏng cũng
nên dịch áo nhẹ, là áo chống nóng.
Ghi Chú (46)
Ba dật đề dịch
nghĩa là đọa, là phạm những giới này nếu không sám hối giữa chư tăng thì sẽ bị
đọa lạc.
Ghi Chú (47)
Coi lại ghi chú
17.
Ghi Chú (48)
5, 6 lời, cũng
có thể dịch là pháp số 5 (như nói 5 uẩn vô ngã) và pháp số 6 (như nói 6 thức vô
thường).
Ghi Chú (49)
Cây cối là chỗ
ở của quỉ thần và sinh vật, nên những chữ chặt phá cây cối và sinh vật là bổ
túc.
Ghi Chú (50)
Giường giây là
lòng giường đan sợi mây hay bất cứ sợi gì. Có chỗ giường giây là võng.
Ghi Chú (51)
Không phải giờ
ăn (phi thời) là kể từ xế bóng ngày trước cho đến ngày sau trời chưa sáng.
Ghi Chú (52)
Dịch rõ là thức
ăn mà mình không hay chưa nhận lời mời, hoặc thuốc cũng không hay chưa nhận lời
mời, mà đã bỏ vào miệng.
Ghi Chú (53)
Bữa ăn trước là
trời sáng cho đến giờ ngọ, bữa ăn sau là giờ ngọ.
Ghi Chú (54)
Nhà ăn (thực
gia) và vật báu ở đây có cái nghĩa riêng ở đây, không phải cái nghĩa thông
thường. Nghĩa thông thường thì nhà ăn là nhà mời ăn, vật báu là vàng ngọc (hoặc
nói bóng người đẹp). Nhưng nghĩa ở đây thì nhà là nhà có chồng vợ, ăn là chồng
vợ ấy hành dâm hưởng lạc với nhau (và vật báu có thể chỉ có nghĩa là trong nhà
ấy có chỗ cho chồng vợ hành dâm). Trong nhà ăn có vật báu như vậy mà họ mời ăn
rồi không đi ngay thì rất chướng ngại cho họ, nhất là cho người chồng.
Ghi Chú (55)
Dịch rõ là khơi
lại 4 sự tranh cãi. Sự tranh cãi có 4, đó là 1, ngôn tranh, là tranh cãi vì bàn
luận giới pháp; 2, mích tranh, là tranh cãi vì xoi bói tội lỗi; 3, phạm tranh,
là tranh cãi về tội lỗi đã phạm; 4, sự tranh, là tranh cãi về công việc Yết ma.
Cả 4 sự tranh cãi đều phải diệt bằng 7 cách Diệt tránh. Khi Yết ma Diệt tránh
rồi mà ai còn khêu gợi lại thì phạm Ba dật đề.
Ghi Chú (56)
Đâu la là bông
của mọi thứ cây cỏ, trong đó có bông gòn, bông vải, và kén tằm hoang.
Ghi Chú (57)
Đúng chính văn
thì chỉ nói tỏi. Nhưng thật ra là nói 5 vị tân. Nên phải dịch các thứ tỏi.
Ghi Chú (58)
Tác tịnh ở đây
là làm vệ sinh bộ phận sinh dục. Đặt giới hạn như vậy là phòng tự kích thích,
phòng thói thủ dâm.
Ghi Chú (59)
Xin lúa, mè,
gạo, đậu, v/v. Ấy là nói sự xin xỏ không chán, không biết xấu hổ.
Ghi Chú (60)
Và các trò chơi
khác. Kỹ nhạc là diễn tấu nhạc khí, là hòa nhạc; có chỗ kỹ nhạc là diễn kịch
hòa nhạc.
Ghi Chú (60b)
Chính văn là
bất sinh Phật pháp trung. Không sinh trong Phật pháp là không sinh vào trong
gia đình tin Phật, không sống trong Phật pháp bằng cách xuất gia hay tại gia.
Ghi Chú (61)
Như trời lạnh
mà chỉ có 1 chăn.
Ghi Chú (62)
Như vì việc của
Tam bảo, vì việc của Tỳ kheo ni bịnh, thì kiết hạ an cư cũng được tác pháp xuất
giới 7 ngày.
Ghi Chú (63)
Vì tín đồ vốn
chỉ xin cúng dường mùa an cư mà thôi.
Ghi Chú (64)
6 nạn là không
có kéo, kim, chỉ, vải không đủ, chủ y phá giới, tính mạng bị nạn.
Ghi Chú (65)
5 ngày coi sóc
1 lần.
Ghi Chú (66)
Vì đui, điếc,
còng, què, v/v.
Ghi Chú (67)
Là 10 năm sau
khi xuất gia và 2 năm Thức xoa. Không phải 12 năm là năm sinh. (Trùng trị, Vạn
63/300A).
Ghi Chú (68)
Dâm nữ, tư
thông, v/v.
Ghi Chú (69)
Là giáo pháp và
cơm áo.
Ghi Chú (70)
Chính văn nói
12 năm, nhưng chính trong Tứ phần luật thì nói 1 năm, hay nói 12 tháng. Như vậy
có thể suy ra mỗi năm độ 1 người là nhiều rồi.
Ghi Chú (71)
Dịch đủ thì còn
cá và thịt. Nhưng đó là tiểu thừa tùy thí tùy thực (cho gì ăn nấy), nên ở đây
phải lược.
Ghi Chú (72)
Chính văn là
gia. Theo cước chú của Vạn 64/102 thì là nhà của thí chủ. Nhưng cước chú của Tỳ
kheo ni giới kinh thì gia ở đây đọc là cô (thái cô), nghĩa là bà thầy. Xét lý
do của giới này (Tứ phần, Chính 22/768) thì nghĩa thầy đúng hơn. Lý do của giới
này là Tỳ kheo ni An ổn có 1 đệ tử là Tỳ kheo ni Đề xá. Hai thầy trò đến nhà
thí chủ cũ. Thí chủ thấy An ổn y phục tề chỉnh, oai nghi hoàn hảo, nên hoan hỷ
cúng dường. Về chùa, An ổn nói với Đề xá, rằng thí chủ này tín tâm chân thành,
cúng dường hảo ý. Đề xá có ý ganh ghét, nói thí chủ tín tâm chân thành, cúng
dường hảo ý, là cúng dường cho thầy!
Ghi Chú (73)
Vạn 64/102 nói
mè đây là chi ma.
Ghi Chú (74)
Chính văn là
chủ khỏa y, tức quần cụt, quần đùi, quần lót, mà may lụa, độn dày, đính đồ đẹp.
Mặc để làm đẹp hạ thể. Bị cấm dùng. Nếu có bịnh thì mặc bịnh y rồi mặc quần.
Ghi Chú (75)
Nói đủ là tăng
kỳ chi, là áo lót che nách, ngực và eo.
Ghi Chú (76)
Thuật số ở đây,
và ở dưới đây, chính văn là kyՠthuật. Chữ này không chỉnh, vì ở đây là nói chú
thuật, lý số, và đó là tà mạng nên Luật cấm.
Ghi Chú (77)
Tra cứu Tứ phần
(Chính 22/777) và Trùng trị (Vạn 63/303), thì lắc mình rảo bước (dao thân xu
hành) có thể hiểu đi mà nhún nhảy. Coi phần khai của giới này thì đủ để hình
dung. Phần ấy nói hoặc vốn có bịnh như vậy, v/v, hoặc muốn làm cho y áo tề
chỉnh, nên nhìn phải nhìn trái, ngoái mình mà nhìn, không phạm.
Ghi Chú (78)
Chính văn là
tác, vừa có nghĩa sử dụng, vừa có nghĩa sắm sửa. Ở đây có cả 2 nghĩa, mà nghĩa
sử dụng nhiều hơn, còn nghĩa sắm sửa thì là giới 157.
Ghi Chú (79)
Dịch nghĩa là
hướng bỉ hối, là những giới điều mà phạm vào chỉ cần sám hối với 1 Tỳ kheo ni.
Ghi Chú (80)
Danh nghĩa (Vạn
70/273) nói từ bò mà ra là nhủ, từ nhủ mà ra là lạc, từ lạc mà ra là sanh tô,
từ sanh tô mà ra là thục tô, từ thục tô mà ra là đề hồ. Đó là nói về sữa bò và
4 cách chế biến về sữa ấy. Bốn cách này khó dịch và biết cho rõ, vì xưa khác
nay khác, xứ khác, tên khác. Nên ở đây tôi để nguyên chữ tô và chữ lạc, và gọi
là sữa tô, sữa lạc.
Ghi Chú (81)
Coi lại ghi chú
71. Nhưng ở đây không thể lược bỏ.
Ghi Chú (82)
1. Như đã nói
trong lời tựa, 100 giới này tôi không dịch tên. 2. 100 giới này hoàn toàn y như
Tỳ kheo giới, chỉ có không hơn vài chỗ khác chữ mà cùng nghĩa.
Ghi Chú (83)
Xuống dòng như
vậy là có ý sắp loại các giới điều này.
Ghi Chú (84)
Chính văn là
tôn tọa. Tôn, các bản ghi chú đều nói là ngồi mà tiếng thông tục của ta gọi là
ngồi chỏ hỏ. Nhưng từ điển nói là ngồi xoạc đùi. Tôi chọn nghĩa này.
Ghi Chú (85)
Để khỏi rơi đồ
ăn xuống.
Ghi Chú (86)
Chính văn là
canh, nhưng rõ ràng chữ ấy ở đây là đồ ăn, chứ không phải chỉ là canh như
thường nói. Do vậy chữ canh ấy được dịch là đồ ăn.
Ghi Chú (87)
Chú thích: ăn
không tuần tự là ngay trong bát mà đã lấy ăn lung tung.
Ghi Chú (88)
Dịch theo chú
thích là một nửa vào miệng, một nửa còn lại nơi tay.
Ghi Chú (88b)
Dịch đủ là nhai
cơm. Nhưng đủ mà thiếu. Bất cứ nhai gì cũng không được ra tiếng, không phải chỉ
nhai cơm.
Ghi Chú (89)
Là 7 cách diệt
trừ sự tranh cãi. Bảy cách này, nếu chư ni có sự tranh cãi (coi ghi chú 55) thì
phải dập tắt bằng 7 cách ấy. Nói đại khái và giản dị, thì một thành phần chư ni
có lỗi, nhất là lỗi gây ra tranh cãi, thì hãy diẹẤt sự tranh cãi ấy bằng cách
cho hiện diện (1), cho nhớ lại (2), cho tỉnh trí (3), cho tự xử (4), cho tự xét
(5), cho chung xét (6), cho qua loa (7). Nghĩa là bằng cách nào đó có lý có
tình mà đem lại sự phụctkl thiện và hoan hỷ là tốt. Giới của 7 cách này là sau khi
Diệt tránh bằng 7 cách rồi, ai còn khơi lại thì phạm tội và bị trị.
_______
* Ghi chú của người edit
Bị thiếu hay bị đánh nhầm số chương ? Nội dung thấy không thiếu tkl
5/ Tám Giới Hối Quá
6/ Một Trăm Giới Học
6/ Bảy Pháp Diệt tránh
9/ Lời Kết Thúc
10/ Phần Cuối Tỳ kheo Ni Giới
Tạm thời xin đổi lại như vầy:
5/ Tám Giới Hối Quá
6/ Một Trăm Giới Học
7/ Bảy Pháp Diệt tránh
8/ Lời Kết Thúc
9/ Phần Cuối Tỳ kheo Ni Giới
Discussion about this post