Trong văn hóa truyền thống phương Đông, tôn sư trọng đạo là một nét đẹp vô cùng quý báu. Người ta ví ân sư như phụ mẫu, bởi vậy, tôn kính cha mẹ bao nhiêu, thì cũng tôn kính thầy bấy nhiêu.
Châm ngôn xưa thường nói: “Một ngày làm thầy, cả đời làm cha”. Người học trò coi ân đức của người thầy tựa như cha của mình, vì vậy mới gọi ông là “ân sư” hay “sư phụ”. Trong khi theo học người thầy, người đệ tử không phải chỉ hiểu được các đạo lý cung kính phụng sự người thầy, mà còn phải nghiêm ngặt thực hiện những gì mà người thầy dạy bảo.
Không ngẫu nhiên mà thời phong kiến người ta lại sắp xếp theo thứ tự: “Quân – Sư – Phụ”. “Sư” (người thầy) chỉ đứng sau vua (quân vương), còn đứng trên cả phụ (phụ mẫu – cha mẹ). Người thầy truyền thụ luân lí đạo đức, tri thức và các giá trị tốt đẹp cho học trò của mình. Bởi vậy, tôn kính sư phụ được xem là vấn đề vô cùng quan trọng.
Năm đó Khương Tử Nha nhất tâm hướng đạo, đối với những sự tình nơi thế gian căn bản là không hứng thú. Nhưng vì sư phụ muốn ông xuống núi, nên ông nhất định phải xuống núi. Ngạn ngữ có câu:“Lời của thầy không thể trái”, đối với Khương Tử Nha, lời nói của thầy dù muốn hay không cũng nhất định phải thực thi.
Sư phụ đã nói là phải nghe, hiểu được cũng cần nghe, không hiểu cũng phải nghe. Kỳ thực, sư phụ chính là luôn mang những điều tốt đẹp nhất cho đệ tử của mình. Chúng ta xem “Phong Thần diễn nghĩa” đã biết rõ, đồ đệ nào xuống núi, sư phụ đều đưa cho họ pháp khí phù hợp nhất, khi gặp phiền toái, sư phụ đều phải xuống núi để giải quyết. Sự khổ tâm của sư phụ, cũng không khác mấy so với sự khổ tâm của người cha, thậm chí còn hơn cả người cha.
Trong rất nhiều thần thoại chúng ta đều thấy rằng, thân thể của sư phụ chính là một thiên quốc, rất nhiều đệ tử của ông đều sinh sống trong đó. Như vậy, hết thảy những thứ của chính mình, vốn dĩ là một bộ phận của sư phụ. Nếu như bất kính với sư phụ, thì giống như là một khối u ác tính trên thân thể, liệu có thể cho phép chúng tồn tại ở đó không? Thiên lý sẽ không cho phép nó tồn tại.
Gần đây, trên một diễn đàn có một bài viết “Một ngày được ở cùng sư phụ”, có nhắc tới chuyện một đệ tử trông thấy sư phụ đang đi tìm đôi dép, liền tới cùng tìm với sư phụ. Sau đó vị đệ tử này nhận ra, vì sao ta không đem dép của mình đưa cho sư phụ? Suy nghĩ sâu hơn sẽ ngộ ra, sư phụ sao lại có thể không tìm thấy dép của mình chứ? Đây rõ ràng là một khảo nghiệm xem đệ tử có kính sư hay không.
Sư phụ đều hy vọng truyền lại những điều tốt nhất cho đệ tử. Cho nên, làm người đệ tử, về tình về lý đều cần phải tôn kính sư phụ, đây chính là tử quan để xét xem một người có thể viên mãn hay không, cũng chính là thước đo sự tu dưỡng của mỗi người.
Những người học trò của Khổng Tử
Khổng Tử là nhà tư tưởng, nhà giáo dục học nổi tiếng thời Trung Quốc cổ đại, tương truyền ông có 3.000 đệ tử, 72 đệ tử hiền đức. Ông đích thân dạy dỗ học trò và yêu cầu ở họ sự toàn diện về nhân cách, tư tưởng. Ông là người chính trực, lương thiện, khiêm tốn, lễ độ, cũng là người trung thành với đất nước và quan tâm tới đời sống của bách tính. Và tất cả những điều đó đều có ảnh hưởng sâu sắc tới các học trò của ông.
Những người học trò của Khổng Tử đều cung kính đối xử với ông như đối đãi với một người cha, coi ý chí của thầy cũng là ý chí của mình. Học trò của Khổng Tử cũng không quản khổ cực, cùng thầy chu du các nước hoằng dương đạo pháp. Khi có người phỉ báng Khổng Tử, họ bèn đứng ra bảo vệ thầy, bảo vệ nhân cách cao thượng của thầy.
Tử Hạ, họ Bốc tên Thương, tự là Tử Hạ, là người có chí học tập nên thường được Khổng Tử khen ngợi và là một trong những học trò xuất sắc của Khổng Môn.
Suốt cuộc đời Khổng Tử coi việc truyền bá văn hóa truyền thống là nhiệm vụ của mình, chu du khắp các nước hoằng đạo mà không màng khó khăn gian khổ. Tử Hạ chăm chỉ hiếu học, tinh thông hầu hết những kinh điển Nho giáo “Thi”, “Thư”, “Lễ”, “Dịch” và theo Khổng Tử đi khắp các nước. Sau khi Khổng Tử qua đời, Tử Hạ cùng các bạn đồng môn Tử Du, Trọng Cung biên soạn bản thảo của “Luận Ngữ”, đồng thời ghi chép lại những lời dạy của thầy thành ngôn luận, học thuyết, tư tưởng, câu chuyện. Tử Hạ kế thừa tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, thêm một bước nữa nghiên cứu biên tập văn hiến cổ đại, đi khắp nơi giảng dạy truyền bá về đạo đức, truyền bá nghi thức lễ nhạc do Khổng Tử khởi xướng, đóng góp lớn cho sự phồn vinh văn hóa và giáo hóa dân phong tại nhiều nơi.
Khi còn theo học Khổng Tử, ông thường vấn đáp với thầy, Khổng Tử khen ông chính trực thẳng thắn, trong đầu không có tạp niệm. Nhờ những quan điểm độc đáo mà ông thường được thầy khen ngợi, ví dụ như câu nói: “Bác học nhi đốc chí, thiết vấn nhi cận tư, nhân tại kỳ trung hĩ”. Ý rằng, học rộng mà chuyên tâm điều nghiên cứu, hỏi điều thiết thực, nghĩ tới việc gần, thì đức nhân ở trong ấy.
Khổng Tử coi trọng việc giáo hóa lễ nhạc, nhấn mạnh việc dùng lễ nhạc cảm hóa nhân tâm, khiến cho âm nhạc của con người thuận với thiên đạo, thành tựu nhân cách “ôn nhu đôn hậu” của người quân tử. Vào thời lễ nhạc bị băng hoại, âm nhạc Trịnh Vệ thịnh hành, biểu hiện ra sự truy cầu những dục vọng vật chất, Khổng Tử phản đối âm nhạc của Trịnh Vệ, gọi đó là niệu âm. Ông cho rằng chỉ có âm nhạc hợp với đạo mới được gọi là âm nhạc, ông bắt tay vào phục hưng lễ nhạc, hoằng đạo tế thế. Tử Hạ giỏi về nhạc, sau khi Khổng Tử mất, ông ghi nhớ lời dạy của thầy, đi khắp nơi truyền bá, phổ cập lễ nhạc, giúp cho rất nhiều người có thể hát khúc cổ cầm “Huyền Ca”.
Khi Tử Hạ mở trường dạy ở nước Ngụy, ông chú trọng hướng dẫn học sinh về đạo đức. Ông còn dạy học sinh và bách tính truyền bá lễ nghĩa, khởi đầu văn minh, đạt được nhân đạo thông qua lễ nhạc.
Đường Thái Tông dạy con tôn sư
Đường Thái Tông là một vị minh quân nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Ông rất coi trọng việc giáo dục con cái, nên khi lựa chọn thầy cho các vị hoàng tử cũng đều tìm chọn những người đức cao vọng trọng, học vấn uyên bác tinh thâm, ví dụ như Lý Cương, Trương Huyền Tố, Ngụy Chủy, Vương Khuê… Không những vậy, còn luôn nhắc nhở con cái cần biết tôn sư trọng đạo.
Có một lần khi Lý Cương bị thương ở chân đi lại không thuận tiện, vua Đường Thái Tông sau khi biết rõ tình hình đã cho phép Lý Cương ngồi kiệu vào cung dạy học và yêu cầu hoàng tử ra tận kiệu để đón thầy. Mặc dù quy chế trong hoàng cung khi đó vô cùng nghiêm ngặt, đừng nói tới việc ngồi kiệu, ngay cả đi lại ra vào cũng cần dè dặt cẩn thận.
Lại có một lần khi có người phản ánh với Đường Thái Tông rằng hoàng tử Lý Thái không tôn trọng thầy giáo của mình là Vương Khuê, ông đã thẳng thắn phê bình dạy con trước mặt thầy: “Từ lần sau mỗi lần gặp thầy, con phải tôn kính giống như đang gặp ta, một chút cũng không được phép lơi là”. Từ đó, hoàng tử gặp Vương Khuê luôn luôn kính cẩn nghênh tiếp nghe giảng nhiệt tình. Cũng bởi gia giáo của Đường Thái Tông vô cùng nghiêm khắc nên mấy hoàng tử của ông đều rất tôn kính thầy.
Không những nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn sư trọng đạo, Đường Thái Tông còn đặc biệt hạ chiếu thư quy định lễ nghi đối xử với thầy và răn dạy các hoàng tử thấy thầy cũng giống như thấy cha, cần hiếu kính tôn trọng. Ngoài ra còn khuyến khích các thầy giáo cần khuyên can dạy dỗ khi các hoàng tử có những lời nói thiếu tôn kính thầy. Thầy giáo của các hoàng tử cũng vì vậy mà luôn kiên định cố gắng hoàn thành trách nhiệm, hiểu và làm theo chiếu thư của Đường Thái Tông.
Trong chín vị hoàng tử của vua Đường, sau khi ông lập hoàng tử Lý Trị làm thái tử lại càng có yêu cầu nghiêm khắc hơn với thái tử. Mỗi lần được cha và thầy giáo dạy bảo, thái tử đều một mực cung kính trang nghiêm và vô cùng cảm kích biết ơn. Không những vậy, còn luôn bày tỏ thái độ sẽ “luôn ghi nhớ trong lòng”, “vĩnh viễn không bao giờ quên”.
Cổ nhân tôn trọng đạo, tôn trọng người thầy có đạo, gìn giữ sự tôn nghiêm của đạo làm thầy, khiến cho muôn đời sau phải noi theo và kính trọng. Tu dưỡng đạo đức cao thượng và tạo ra tín ngưỡng cao quý, học thầy đức, cảm ơn thầy, trở thành chân lý và đạo nghĩa cho muôn đời sau.
ST.
Discussion about this post