ĐÔI NÉT VỀ THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO
Tiêu chuẩn của thiện ác là gì? Là giới luật. Trong nhà Phật, giới luật thấp nhất, tiêu chuẩn cơ bản, tiêu chuẩn thấp nhất là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Chỗ này các vị phải biết, là tiêu chuẩn thấp nhất trong nhà Phật. Mười điều này bạn có làm đến được hay không? Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không hai lưỡi, không ác khẩu, không thêu dệt, không tham, không sân, không si, đây là giới luật trong nhà Phật, chính là tiêu chuẩn thấp nhất của thiện ác. Hướng lên trên cao cũng chính là mở rộng mười điều này mà thôi. Bạn thấy như A-la-hán tiểu thừa ba ngàn oai nghi; Bồ-tát đại thừa đã tu tám vạn tế hạnh. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh đều là lấy Thập Thiện Nghiệp Đạo làm nền tảng để mở rộng, như vậy bạn mới biết được Thập Thiện Nghiệp Đạo là quan trọng đến dường nào! Đây là pháp căn bản để tu học Phật pháp. Nếu làm không được chỗ này, bạn ở nơi Phật pháp nhất định không có thành tựu, bạn vẫn là phàm phu, tu thế nào đều là dậm chân tại chỗ, bạn không thể bước thêm được bước nào trên đạo Bồ Đề. Thập Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh cùng với Đệ Tử Quy và Thái Thượng Cảm Ứng Thiên là ba căn bản của Nho-Thích-Đạo, bất luận là ai cũng phải từ ba căn bản này mà học tập vun bồi cọi rễ, như thế mới có thể đạt được thành tựu chân thật trong một đời.
I. Toàn văn:” Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo” (bản diễn Nôm)
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật ở tại cung điện của Hải Long Vương, cùng với 8.000 vị đại Tỳ-kheo và 32.000 vị Bồ-tát Ma-ha-tát.
Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Long Vương rằng:
“Do hết thảy chúng sanh có tâm tưởng khác nhau, nên nghiệp tạo ra cũng khác. Bởi vậy cho nên họ phải luân chuyển trong các nẻo.
Này Long Vương! Ông có thấy đại chúng ở Pháp hội này với chúng sanh trong biển lớn khác nhau về hình sắc và chủng loại chăng? Muôn sự khác biệt như thế đều là do tâm. Nó khởi sanh thiện hay bất thiện của thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp. Thế nhưng tâm không có hình sắc, không thể thấy, và không thể nắm bắt. Chỉ là do hư vọng mà các pháp tụ tập và sanh khởi. Nó cứu cánh chẳng có chủ tể, không có ngã và ngã sở. Mặc dầu tùy theo mỗi nghiệp mà sở hiện bất đồng, nhưng thật sự nó không có người sáng tác. Cho nên, tự tánh của tất cả pháp đều như huyễn và chẳng thể nghĩ bàn.
Khi người trí đã biết Đạo lý này thì nên tu nghiệp lành. Như vậy lúc sinh ra, thân thể kết hợp bởi năm uẩn, mười hai nhập, và sáu giới đều được đoan chánh; ai trông thấy họ sẽ không bao giờ nhàm chán.
Này Long Vương! Ông hãy quán thân của Phật; thân ấy là do từ trăm ngàn ức phước đức mà sanh ra. Tướng hảo của Phật trang nghiêm. Hào quang sáng rực che khuất các đại chúng và cho đến quang minh của vô lượng ức vị Phạm Vương tự tại cũng thảy đều chẳng hiện. Phàm ai chiêm ngưỡng thân tướng của Như Lai thì mắt của họ không hề nháy.
Tiếp đến, ông hãy quán sắc thân vi diệu và trang nghiêm thanh tịnh của chư đại Bồ-tát nơi đây; tất cả đều do phước đức của tu tập thiện nghiệp mà sanh ra.
Lại nữa, hàng thiên long bát bộ với uy thế lớn, họ cũng nhân do phước đức của thiện nghiệp mà sanh ra.
Hiện tại tất cả chúng sanh ở trong biển lớn với hình sắc thô bỉ, hoặc lớn hay nhỏ, đều là do muôn thứ tưởng niệm của tự tâm mà làm các nghiệp bất thiện qua thân khẩu ý. Cho nên tùy theo nghiệp mà ai nấy tự thọ quả báo.
Ông nay hãy tu học như vậy. Ông cũng nên khiến chúng sanh thấu rõ nhân quả và tu tập nghiệp lành. Ông nên kiên cố bất động nơi chánh kiến, và cũng đừng sa vào đoạn kiến hay thường kiến. Đối với các phước điền, ông hãy hoan hỷ, tôn kính, và trưởng dưỡng. Như thế, các ông cũng sẽ được trời người tôn kính và cúng dường.
Này Long Vương! Ông nên biết Bồ-tát có một Pháp mà có thể đoạn trừ hết thảy mọi thống khổ của ác đạo. Một Pháp này là gì?
Đó là ngày đêm trong mỗi niệm luôn tư duy và quán sát Pháp lành, khiến các Pháp lành niệm niệm tăng trưởng, và đừng bao giờ xen lẫn chúng với việc bất thiện, dẫu chỉ nhỏ như đường tơ. Như thế mới có thể vĩnh viễn đoạn trừ những điều ác, viên mãn Pháp lành, và thường được thân cận chư Phật Bồ-tát cùng những vị thánh chúng khác. Thân của trời người, Bồ-đề của Thanh Văn, Bồ-đề của Độc Giác, và Bồ-đề vô thượng của chư Phật–đều nương Pháp này dùng làm căn bổn mà được thành tựu. Cho nên gọi là Pháp lành. Pháp này tức là Thập Thiện Nghiệp Đạo. Những gì là mười?
Đó là vĩnh viễn không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói đâm thọc, nói lời ác, nói thêu dệt, tham dục, sân khuể, và si mê.
Này Long Vương! Nếu ai không sát sanh thì liền được thành tựu mười điều thoát ly khổ não. Những gì là mười?
1. Rộng thí vô úy cho các chúng sanh.
2. Luôn khởi tâm đại từ đối với chúng sanh.
3. Vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí của sân khuể.
4. Thân chẳng mắc bệnh.
5. Thọ mạng lâu dài.
6. Luôn được loài phi nhân hộ vệ.
7. Giấc ngủ an vui và không gặp ác mộng.
8. Diệt trừ oán kết và hận thù sẽ tự giải.
9. Không sợ rơi vào ác đạo.
10. Khi mạng chung sẽ sanh lên trời.
Đây là mười điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được chư Phật gia hộ, thọ mạng tự tại, và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, Long Vương! Nếu ai không trộm cắp thì liền được mười điều tin sâu vững chắc. Những gì là mười?
1. Tài phú giàu sang và không bị vua chúa, trộm cướp, nạn nước lửa, hay con cái ngỗ nghịch đoạt mất.
2. Được nhiều người thương nhớ.
3. Không bị người lấn hiếp.
4. Mười phương ngợi khen.
5. Không lo gặp phải việc tổn hại.
6. Tiếng thơm vang khắp.
7. Không khiếp sợ bởi uy đức của đại chúng.
8. Tài bảo, thọ mạng, và sắc lực an lạc; đầy đủ biện tài và không chút khiếm khuyết.
9. Trong lòng thường mong muốn bố thí.
10. Khi mạng chung sẽ sanh lên trời.
Đây là mười điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ chứng đắc trí tuệ thanh tịnh của đại Bồ-đề và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, Long Vương! Nếu ai không tà dâm thì liền được bốn điều mà người trí tán thán. Những gì là bốn?
1. Các căn điều phục.
2. Vĩnh viễn thoát ly việc náo loạn.
3. Được khắp thế gian khen ngợi.
4. Vợ hoặc chồng không thể bị người dụ dỗ.
Đây là bốn điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được tướng mã âm tàng của bậc đại trượng phu và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, Long Vương! Nếu ai không nói dối thì liền được tám điều mà chư thiên tán thán. Những gì là tám?
1. Miệng luôn thanh tịnh như hương thơm của hoa sen xanh.
2. Được mọi người trong thế gian tin tưởng và khâm phục.
3. Lời nói chánh trực và trời người kính mến.
4. Luôn dùng ái ngữ để an ủi chúng sanh.
5. Được niềm vui thù thắng và ba nghiệp thanh tịnh.
6. Lời nói không nhầm lẫn và tâm thường hoan hỷ.
7. Lời nói ra được trời người tôn trọng và phụng hành.
8. Trí tuệ thù thắng và chẳng ai có thể chế phục.
Đây là tám điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được lời nói chân thật của Như Lai và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, Long Vương! Nếu ai không nói đâm thọc thì liền được năm điều chẳng thể hủy hoại. Những gì là năm?
1. Được thân bất hoại mà không ai có thể hại.
2. Được quyến thuộc trung nghĩa mà không ai có thể phá.
3. Được tín tâm vững chắc do thuận theo bổn nghiệp.
4. Được Pháp hành vững bền do sự tu hành kiên cố.
5. Được Thiện Tri Thức lâu dài do không hề dối trá.
Đây là năm điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được quyến thuộc thành tựu mà chúng ma ngoại đạo chẳng thể cản trở hay phá hoại và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, Long Vương! Nếu ai không nói lời ác thì liền được tám nghiệp thanh tịnh. Những gì là tám?
1. Lời nói sẽ không trái nghịch.
2. Lời nói đều có lợi ích.
3. Lời nói thảy đều hợp lý.
4. Lời nói rất mỹ diệu.
5. Lời nói đáng lãnh thọ.
6. Lời nói có tín dụng.
7. Lời nói không thể khinh chê.
8. Lời nói luôn mãi được yêu thích.
Đây là tám điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ đầy đủ tiếng Phạm âm của Như Lai và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, Long Vương! Nếu ai không nói thêu dệt thì liền được ba điều nhất định. Những gì là ba?
1. Nhất định được người trí kính mến.
2. Nhất định có thể dùng trí tuệ để trả lời câu hỏi chính xác.
3. Nhất định được uy đức tối thắng trong hàng trời người và tuyệt đối không hư vọng.
Đây là ba điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ không bao giờ quên lãng những việc đã thọ ký của Như Lai và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, Long Vương! Nếu ai không tham dục thì liền được thành tựu năm điều tự tại. Những gì là năm?
1. Ba nghiệp tự tại do các căn đầy đủ.
2. Tài vật tự tại do hết thảy oán tặc chẳng thể cướp đoạt.
3. Phước đức tự tại do mọi vật mong muốn đều được cung cấp.
4. Vương vị tự tại do các kỳ trân diệu bảo đều được phụng hiến.
5. Vật dụng có được sẽ thù thắng gấp trăm lần so với sở cầu ban đầu do thuở xưa không keo kiệt và ganh ghét.
Đây là năm điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được khắp Tam Giới đều tôn kính cúng dường và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, Long Vương! Nếu ai không sân khuể thì liền được tám điều vui sướng trong lòng. Những gì là tám?
1. Tâm không có sự tổn hại và khổ não.
2. Tâm không khởi nóng giận.
3. Tâm không sanh tranh tụng.
4. Tâm nhu hòa và ngay thẳng.
5. Được tâm từ của bậc thánh.
6. Tâm luôn làm lợi ích và an ủi chúng sanh.
7. Thân tướng đoan nghiêm và mọi người đều tôn kính.
8. Mau sanh về cõi Phạm Thiên do nhu hòa và kiên nhẫn.
Đây là tám điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ được tâm vô ngại, chúng sanh chiêm ngưỡng không chán mỏi, và cuối cùng sẽ thành Phật.
Lại nữa, Long Vương! Nếu ai không si mê thì liền được thành tựu mười điều công đức. Những gì là mười?
1. Được niềm vui và bạn bè chân thiện.
2. Tin sâu nhân quả và dẫu có mất thân mạng thì cũng không bao giờ làm ác.
3. Chỉ quy y Phật và không quy y với bất cứ vị trời nào khác.
4. Trực tâm chánh kiến và vĩnh viễn lìa xa tất cả lưới nghi về sự kiết hung.
5. Luôn sanh về cõi trời người và không còn đọa vào ác đạo.
6. Vô lượng phước tuệ thù thắng sẽ triển chuyển gia tăng.
7. Vĩnh viễn lìa xa tà đạo và tu hành thánh Đạo.
8. Chẳng dấy khởi thân kiến và xả bỏ các nghiệp ác.
9. An trụ ở cái thấy không chướng ngại.
10. Không rơi vào tám nạn.
Đây là mười điều. Nếu có thể hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì họ sẽ mau chứng tất cả Phật Pháp, thành tựu thần thông tự tại, và cuối cùng sẽ thành Phật.”
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Long Vương rằng:
“Nếu có vị Bồ-tát nào đương lúc tu Đạo mà nương theo thiện nghiệp này, thì do bởi không sát sanh và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Họ sẽ được trường thọ, không bị chết yểu, và không bị bất cứ oán tặc nào tổn hại.
Do bởi không trộm cắp và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Họ là bậc tối thắng không ai sánh bằng và khéo có thể tu tập Pháp tạng của chư Phật.
Do bởi không tà dâm và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Gia đình của họ sẽ chánh trực và hòa thuận; không ai có thể đem lòng dâm dục mà dòm ngó cha mẹ, vợ chồng, hay con cái của họ.
Do bởi không nói dối và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Họ sẽ không bị người khác hủy báng. Họ sẽ nhiếp trì Chánh Pháp. Mọi việc làm sẽ như thệ nguyện của họ và đều được kết quả mỹ mãn.
Do bởi không nói đâm thọc và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Quyến thuộc của họ sẽ hòa mục, có những niềm vui giống nhau và không bao giờ tranh cãi.
Do bởi không nói lời ác và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Tất cả mọi người sẽ vui vẻ nương tựa và đều tín thọ lời nói của họ mà chẳng ai khán cự hay trái nghịch.
Do bởi không nói thêu dệt và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Lời nói của họ sẽ không giả dối, người nghe đều cung kính và tin tưởng. Với thiện xảo phương tiện, họ có thể đoạn trừ những điều nghi hoặc cho người khác.
Do bởi không tham dục và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Đối với hết thảy vật sở hữu, họ đều dùng trí tuệ mà xả bỏ. Họ có tín giải kiên cố và đầy đủ đại uy lực.
Do bởi không sân khuể và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Họ sẽ mau tự thành tựu trí tuệ vô ngại. Các căn của họ đoan nghiêm và ai thấy đều kính mến.
Do bởi không si mê và thực hành bố thí, nên họ sẽ luôn được tài bảo giàu sang và không ai có thể chiếm đoạt. Họ sẽ luôn sinh ra ở trong gia đình có chánh kiến, cung kính, và tín tâm. Họ sẽ thấy Phật, nghe Pháp, và cúng dường chư Tăng. Họ sẽ không bao giờ quên mất Bồ-đề tâm rộng lớn.
Đây là Mười Nghiệp Lành của các bậc Đại sĩ khi tu Bồ-tát Đạo.
Này Long Vương! Nói chung, phàm ai tu hành Mười Nghiệp Lành, do dùng bố thí trang nghiêm, nên họ được lợi ích lớn lao như vậy.
Do dùng trì giới trang nghiêm, nên họ đầy đủ đại nguyện, có thể thông hiểu nghĩa thú và đạt được lợi ích của hết thảy Phật Pháp.
Do dùng nhẫn nhục trang nghiêm, nên họ được Phạm âm viên mãn của Phật và đầy đủ các tướng tốt.
Do dùng tinh tấn trang nghiêm, nên họ có thể phá trừ ma oán và nhập Pháp tạng của Phật.
Do dùng thiền định trang nghiêm, nên họ có thể sanh trí tuệ Bát-nhã, biết hổ thẹn, và được khinh an.
Do dùng Bát-nhã trang nghiêm, nên họ có thể đoạn trừ tất cả sự phân biệt của cái thấy hư vọng.
Do dùng từ trang nghiêm, nên họ chẳng khởi não hại đối với chúng sanh.
Do dùng bi trang nghiêm, nên họ luôn thương xót và không bao giờ rời bỏ chúng sanh.
Do dùng hỷ trang nghiêm, nên khi thấy người tu thiện, lòng họ không hề ganh ghét.
Do dùng xả trang nghiêm, nên đối với thuận cảnh hay nghịch cảnh, tâm họ không nảy sanh tham ái hay sân khuể.
Do dùng Tứ Nhiếp Pháp trang nghiêm, nên họ luôn ân cần nhiếp thọ và giáo hóa tất cả chúng sanh.
Do dùng Tứ Niệm Xứ trang nghiêm, nên họ khéo có thể tu tập quán tưởng bốn nơi–thân, thọ, tâm, pháp.
Do dùng Tứ Chánh Cần trang nghiêm, nên họ đều có thể đoạn trừ hết thảy pháp bất thiện và thành tựu tất cả Pháp lành.
Do dùng Tứ Thần Túc trang nghiêm, nên họ luôn khiến thân tâm an lạc và khinh an.
Do dùng Ngũ Căn trang nghiêm, nên họ có tín tâm kiên cố, tinh tấn không ngừng, vĩnh viễn không mê muội, tịch nhiên điều thuận, và đoạn trừ các phiền não.
Do dùng Ngũ Lực trang nghiêm, nên họ diệt trừ tận mọi oán hận và không ai có thể phá hoại.
Do dùng Thất Bồ-đề Phần trang nghiêm, nên họ luôn khéo giác ngộ hết thảy các pháp.
Do dùng Bát Chánh Đạo trang nghiêm, nên họ luôn được trí tuệ chân chánh hiện tiền.
Do dùng chỉ trang nghiêm, nên họ đều có thể trừ sạch mọi kết sử.
Do dùng quán trang nghiêm, nên họ có thể biết như thật của tự tánh các pháp.
Do dùng phương tiện trang nghiêm, nên họ mau được thành tựu viên mãn của vô vi an lạc.
Này Long Vương! Phải biết Mười Nghiệp Lành này có thể khiến Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, 18 Pháp Bất Cộng, và hết thảy Phật Pháp đều được viên mãn. Cho nên các ông cần phải tu học.
Này Long Vương! Ví như tất cả thành thị xóm làng đều nương đại địa mà an trú. Hết thảy dược thảo, cây cối, và rừng rậm cũng đều nương nơi đất mà được sanh trưởng. Mười Nghiệp Lành này thì cũng lại như vậy. Tất cả trời người đều nương vào đó mà an lập. Tất cả Bồ-đề của Thanh Văn và Độc Giác, các hạnh nguyện của Bồ-tát, và hết thảy Phật Pháp đều nương vào đại địa của Thập Thiện mà được thành tựu.”
Khi Phật thuyết Kinh này xong, Hải Long Vương cùng các đại chúng, tất cả trời, người, và a-tu-la trong thế gian đều sanh tâm đại hoan hỷ và tín thọ phụng hành.
- Toàn văn” Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo” (bản Hán Việt)
Như thị ngã văn: Nhất thời Phật tại Ta-Kiệt-La Long cung, dữ bát thiên đại Tỳ-Kheo chúng, tam vạn nhị thiên Bồ-Tát Ma-Ha-Tát câu.
Nhĩ thời Thế Tôn cáo Long Vương ngôn: Nhất thiết chúng sanh tâm tưởng dị cố, tạo nghiệp diệc dị, do thị cố hữu chư thú luân chuyển.
Long Vương! Nhữ kiến thử hội cập đại hải trung, hình sắc chủng loại các biệt phủ da? Như thị nhất thiết mị bất do tâm, tạo thiện bất thiện, thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp sở trí.
Nhi tâm vô sắc, bất khả kiến thủ, đản thị hư vọng, chư pháp tập khởi, tất cánh vô chủ, vô ngã ngã sở. Tuy các tùy nghiệp sở hiện bất đồng, nhi thật ư trung vô hữu tác giả. Cố nhất thiết pháp giai bất tư nghì, tự tánh như huyễn.
Trí giả tri dĩ, ưng tu thiện nghiệp, dĩ thị sở sanh, uẩn, xứ, giới đẳng, giai tất đoan chánh, kiến giả vô yểm.
Long vương! Nhữ quán Phật thân, tùng bá thiên ức phước đức sở sanh, chư tướng trang nghiêm, quang minh hiển diệu, tế chư đại chúng, thiết vô lượng ức tự tại Phạm vương, tất bất phục hiện, kỳ hữu chiêm ngưỡng Như Lai thân giả, khởi bất mục huyễn.
Nhữ hựu quán thử chư đại Bồ-Tát, diệu sắc nghiêm tịnh, nhất thiết giai do tu tập thiện nghiệp phước đức nhi sanh.
Hựu chư Thiên Long Bát Bộ chúng đẳng, đại oai thế giả, diệc nhân thiện nghiệp phước đức sở sanh.
Kim đại hải trung, sở hữu chúng sanh, hình sắc thô bỉ, hoặc đại hoặc tiểu, giai do tự tâm chủng chủng tưởng niệm tác thân ngữ ý chư bất thiện nghiệp, thị cố tùy nghiệp, các tự thọ báo.
Nhữ kim thường ưng như thị tu học, diệc linh chúng sanh liễu đạt nhân quả, tu tập thiện nghiệp. Nhữ đương nhân thử chánh kiến bất động, vật phục đọa tại đoạn thường kiến trung! Ư chư phước điền hoan hỷ kính dưỡng, thị cố nhữ đẳng diệc đắc nhân thiên tôn kính cúng dường.
Long Vương đương tri: Bồ-Tát hữu nhất pháp, năng đoạn nhất thiết chư ác đạo khổ. Hà đẳng vi nhất? Vị ư trú dạ thường niệm tư duy quán sát thiện pháp, linh chư thiện pháp niệm niệm tăng trưởng, bất dung hào phân bất thiện gián tạp, thị tức năng linh chư ác vĩnh đoạn, thiện pháp viên mãn, thường đắc thân cận chư Phật, Bồ-Tát cập dư Thánh chúng.
Ngôn thiện pháp giả, vị nhân thiên thân, Thanh văn Bồ-đề, Ðộc giác Bồ-đề, Vô thượng Bồ-đề, giai y thử pháp, dĩ vi căn bản, nhi đắc thành tựu, cố danh thiện pháp.
Thử pháp tức thị Thập thiện nghiệp đạo. Hà đẳng vi thập? Vị năng vĩnh ly sát sanh, thâu đạo, tà hạnh, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế, tà kiến.
Long Vương! Nhược ly sát sanh, tức đắc thành tựu thập ly não pháp. Hà đẳng vi thập?
Nhất : Ư chư chúng sanh phổ thí vô úy.
Nhị : Thường ư chúng sanh khởi đại từ tâm.
Tam : Vĩnh đoạn nhất thiết sân nhuế tập khí.
Tứ : Thân thường vô bệnh.
Ngũ : Thọ mạng trường viễn.
Lục : Hằng vi phi nhân chi sở thủ hộ.
Thất : Thường vô ác mộng, tâm giác khoái lạc.
Bát : Diệt trừ oán kết, chúng oán tự giải.
Cửu : Vô ác đạo bố.
Thập : Mạng chung sanh thiên.
Thị vi thập. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, đắc Phật tùy tâm tự tại thọ mạng.
Phục thứ Long Vương, nhược ly thâu đạo, tức đắc thập chủng khả bảo tín pháp. Hà đẳng vi thập?
Nhất : Tư tài doanh tích, vương tặc, thủy hỏa, cập phi ái tư, bất năng tán diệt.
Nhị : Ða nhân ái niệm.
Tam : Nhân bất khi phụ.
Tứ : Thập phương tán mỹ.
Ngũ : Bất ưu tổn hại.
Lục : Thiện danh lưu bố.
Thất : Xử chúng vô úy.
Bát : Tài, mạng, sắc, lực an lạc, biện tài cụ túc vô khuyết.
Cửu : Thường hoài thí ý.
Thập : Mạng chung sanh thiên.
Thị vi thập. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, đắc chứng thanh tịnh đại bồ-đề trí.
Phục thứ Long Vương, nhược ly tà hạnh, tức đắc tứ chủng trí sở tán pháp. Hà đẳng vi tứ?
Nhất : Chư căn điều thuận.
Nhị : Vĩnh ly huyên trạo.
Tam : Thế sở xưng tán.
Tứ : Thê mạc năng xâm.
Thị vi tứ. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, đắc Phật trượng phu ẩn mật tàng tướng.
Phục thứ Long Vương, nhược ly vọng ngữ, tức đắc bát chủng thiên sở tán pháp. Hà đẳng vi bát?
Nhất : Khẩu thường thanh tịnh Ưu-bát hoa hương.
Nhị : Vi chư thế gian chi sở tín phục.
Tam : Phát ngôn thành chứng, nhân thiên kính ái.
Tứ : Thường dĩ ái ngữ an ủi chúng sanh.
Tam : Ðắc thắng ý lạc, tam nghiệp thanh tịnh.
Lục : Ngôn vô ngộ thất, tâm thường hoan hỷ.
Thất : Phát ngôn tôn trọng, nhân thiên phụng hành.
Bát : Trí tuệ thù thắng vô năng chế phục.
Thị vi bát. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, tức đắc Như Lai chân thật ngữ.
Phục thứ Long Vương, nhược ly lưỡng thiệt, tức đắc ngũ chủng bất khả hoại pháp. Hà đẳng vi ngũ?
Nhất : Ðắc bất hoại thân, vô năng hại cố.
Nhị : Ðắc bất hoại quyến thuộc, vô năng phá cố.
Tam : Ðắc bất hoại tín, thuận bổn nghiệp cố.
Tứ : Ðắc bất hoại pháp hạnh, sở tu kiên cố cố.
Ngũ : Ðắc bất hoại thiện tri thức, bất cuống hoặc cố.
Thị vi ngũ. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, đắc chánh quyến thuộc, chư ma ngoại đạo, bất năng trở hoại.
Phục thứ Long Vương, nhược ly ác khẩu, tức đắc thành tựu bát chủng tịnh nghiệp. Hà đẳng vi bát?
Nhất : Ngôn bất quai độ.
Nhị : Ngôn giai lợi ích.
Tam : Ngôn tất khế lý.
Tứ : Ngôn từ mỹ diệu.
Tam : Ngôn khả thừa lãnh.
Lục : Ngôn tắc tín dụng.
Thất : Ngôn vô khả cơ.
Bát : Ngôn tận ái lạc.
Thị vi bát. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, cụ túc Như Lai Phạm âm thanh tướng.
Phục thứ Long Vương, nhược ly ỷ ngữ tức đắc thành tựu tam chủng quyết định. Hà đẳng vi tam?
Nhất : Ðịnh vi trí nhân sở ái.
Nhị : Ðịnh năng dĩ trí như thật đáp vấn.
Tam : Ðịnh ư nhân thiên oai đức tối thắng, vô hữu hư vọng.
Thị vi tam. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, đắc Như Lai sở thọ ký giai bất đường quyên.
Phục thứ Long Vương, nhược ly tham dục, tức đắc thành tựu ngũ chủng tự tại. Hà đẳng vi ngũ?
Nhất : Tam nghiệp tự tại, chư căn cụ túc cố.
Nhị : Tài vật tự tại, nhất thiết oán tặc bất đoạt cố.
Tam : Phước đức tự tại, tùy tâm sở dục vật giai bị cố.
Tứ : Vương vị tự tại, trân kỳ diệu vật giai phụng hiến cố.
Ngũ : Sở hoạch chi vật, quá bổn sở cầu, bá bội thù thắng, do ư tích thời, bất xan tật cố.
Thị vi ngũ. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, tam giới đặc tôn, giai cộng kính dưỡng.
Phục thứ Long Vương, nhược ly sân nhuế, tức đắc bát chủng hỷ duyệt tâm pháp. Hà đẳng vi bát?
Nhất : Vô tổn não tâm.
Nhị : Vô sân nhuế tâm.
Tam : Vô tranh tụng tâm.
Tứ : Nhu hòa chất trực tâm.
Tam : Ðắc Thánh giả từ tâm.
Lục : Thường tác lợi ích an chúng sanh tâm.
Thất : Thân tướng đoan nghiêm chúng cộng tôn kính.
Bát : Dĩ hòa nhẫn cố, tốc sanh Phạm thế.
Thị vi bát. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, đắc Phật vô ngại tâm, quán giả vô yểm.
Phục thứ Long Vương, nhược ly tà kiến, tức đắc thành tựu thập công đức pháp. Hà đẳng vi thập?
Nhất : Ðắc chân thiện ý lạc, chân thiện đẳng lữ.
Nhị : Thâm tín nhân quả, ninh quyên thân mạng, chung bất tác ác.
Tam : Duy quy y Phật, phi dư thiên đẳng.
Tứ : Trực tâm chánh kiến, vĩnh ly nhất thiết kiết hung nghi võng.
Tam : Thường sanh nhân thiên bất cánh ác đạo.
Lục : Vô lượng phước tuệ, chuyển chuyển tăng thắng.
Thất : Vĩnh ly tà đạo, hành ư Thánh đạo.
Bát : Bất khởi thân kiến, xả chư ác nghiệp.
Cửu : Trú vô ngại kiến.
Thập : Bất đọa chư nạn.
Thị vi thập. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, tốc chứng nhất thiết Phật pháp, thành tựu tự tại thần thông.
Nhĩ thời Thế Tôn phục cáo Long Vương ngôn:
Nhược hữu Bồ-Tát y thử thiện nghiệp, ư tu đạo thời, năng ly sát hại nhi hành bố thí cố. Thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, trường thọ vô yểu, bất vi nhất thiết oán tặc tổn hại.
Ly bất dữ thủ nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, tối thắng vô tỷ, tất năng bị tập chư Phật pháp tạng.
Ly phi phạm hạnh nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, kỳ gia trinh thuận, mẫu cập thê tử, vô hữu năng dĩ dục tâm thị giả ….
Ly hư cuống ngữ nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, ly chúng hủy báng, nhiếp trì chánh pháp, như kỳ thệ nguyện, sở tác tất quả.
Ly ly gián ngữ nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, quyến thuộc hòa mục, đồng nhất chí lạc, hằng vô quai tránh.
Ly thô ác ngữ nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, nhất thiết chúng hội hoan hỷ quy y, ngôn giai tín thọ, vô vi cự giả.
Ly vô nghĩa ngữ nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, ngôn bất hư thiết, nhân giai kính thọ, năng thiện phương tiện, đoạn chư nghi hoặc.
Ly tham cầu tâm nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, nhất thiết sở hữu, tất dĩ huệ xả, tín giải kiên cố, cụ đại oai lực.
Ly phẫn nộ tâm nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, tốc tự thành tựu vô ngại tâm trí, chư căn nghiêm hảo kiến giai kính ái.
Ly tà đảo tâm nhi hành thí cố, thường phú tài bảo, vô năng xâm đoạt, hằng sanh chánh kiến, kính tín chi gia, kiến Phật, văn pháp, cúng dường chúng tăng, thường bất vong thất đại Bồ-đề tâm.
Thị vi đại sĩ tu Bồ-Tát đạo thời, hành Thập thiện nghiệp, dĩ thí trang nghiêm sở hoạch đại lợi.
Như thị Long Vương, cử yếu ngôn chi, hành Thập thiện đạo, dĩ giới trang nghiêm cố, năng sanh nhất thiết Phật pháp nghĩa lợi, mãn túc đại nguyện.
Nhẫn nhục trang nghiêm cố, đắc Phật viên âm, cụ chúng tướng hảo.
Tinh tấn trang nghiêm cố, năng phá ma oán, nhập Phật pháp tạng.
Ðịnh trang nghiêm cố, năng sanh niệm, tuệ, tàm, quí, khinh an.
Tuệ trang nghiêm cố, năng đoạn nhất thiết phân biệt vọng kiến.
Từ trang nghiêm cố, ư chư chúng sanh bất khởi não hại.
Bi trang nghiêm cố, mẫn chư chúng sanh thường bất yểm xả.
Hỷ trang nghiêm cố, kiến tu thiện giả tâm vô hiềm tật.
Xả trang nghiêm cố, ư thuận vi cảnh vô ái nhuế tâm.
Tứ nhiếp trang nghiêm cố, thường cần hóa nhất thiết chúng sanh.
Niệm xứ trang nghiêm cố, thiện năng tu tập Tứ niệm xứ quán.
Chánh cần trang nghiêm cố, tất năng đoạn trừ nhất thiết bất thiện pháp, thành nhất thiết thiện pháp.
Thần túc trang nghiêm cố, hằng linh thân tâm khinh an khoái lạc.
Ngũ căn trang nghiêm cố, thâm tín kiên cố, tinh cần phỉ giải, thường vô mê vọng, tịch nhiên điều thuận đoạn chư phiền não.
Lực trang nghiêm cố, chúng oán tận diệt, vô năng hoại giả.
Giác chi trang nghiêm cố, thường thiện giác ngộ nhất thiết chư pháp.
Chánh đạo trang nghiêm cố, đắc chánh trí tuệ, thường hiện tại tiền.
Chỉ trang nghiêm cố, tất năng địch trừ nhất thiết kiết sử.
Quán trang nghiêm cố, năng như thật chi chư pháp tự tánh.
Phương tiện trang nghiêm cố, tốc đắc thành mãn vi vô vi lạc.
Long Vương đương tri, thử Thập thiện nghiệp, nãi chí năng linh Thập lực tứ vô uý, Thập bát bất cộng nhất thiết Phật pháp, giai đắc viên mãn. Thị cố nhữ đẳng ưng cần tu học.
Long vương! Thí như nhất thiết thành ấp tụ lạc giai y đại địa nhi đắc an trụ, nhất thiết dược thảo hủy mộc tùng lâm, diệc y địa nhi đắc sanh trưởng. Thử Thập thiện đạo, diệc phục như thị. Nhất thiết nhân thiên y chi nhi lập, nhất thiết Thanh văn, Ðộc giác bồ-đề, chư Bồ-Tát hạnh, nhất thiết Phật pháp, hàm cộng y thử Thập thiện đại địa nhi đắc thành tựu.
Phật thuyết thử kinh dĩ, Ta-Kiệt-La Long Vương cập chư đại chúng nhất thiết thế gian, thiên, nhân, a-tu-la đẳng, giai đại hoan hỷ tín thọ phụng hành.
Discussion about this post