Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói, tam phước tổng cộng có ba điều. Phước thứ nhất là trời người. Nói cách khác, trong sáu cõi, bạn có thể làm chân thật đến được thì bạn không mất thân người, không đọa vào ba đường ác, đời đời kiếp kiếp ở trời người để hưởng phước.
Câu một, hiếu dưỡng cha mẹ, bạn làm được chưa?
Câu hai, phụng sự Sư Trưởng, bạn làm được chưa?
Câu ba, từ tâm bất sát.
Câu bốn, tu thập thiện nghiệp.
Bốn câu này ý nghĩa rất sâu. Chúng ta cũng đã từng trải qua chuyên đề diễn giảng. Phải ghi nhớ bốn câu này. Khởi tâm động niệm lời nói việc làm có tương ưng với những điều này không. Nếu không tương ưng thì sai. Phải thường tập tương ưng chi hạnh.
Phước thứ hai là phước hàng nhị thừa, Thanh Văn, Duyên Giác. Các vị phải biết, phước thứ nhất là phàm phu. Phước thứ hai mới là học Phật.
Phật Pháp được xây dựng trên nền tảng của phước thế gian. Không có phước thế gian thì học Phật làm sao thành tựu. Nói cách khác, bạn làm người chưa tốt thì làm sao có thể học Phật. Bốn câu trên dạy bạn làm người. Nếu trái ngược bốn câu thì bạn không phải con người mà là súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục.
Trong Tả truyện sách xưa có câu nói:
Nhân khí thường tất yêu hưng.
Thường là ngũ thường, gồm:
nhân nghĩa lễ trí tín. Nếu con người bỏ mất chữ thường, làm những việc bất nhân bất nghĩa thì đó là yêu ma quỷ quái, không phải người.
Cho nên trời người đều có tiêu chuẩn đạo đức. Các vị thử nghĩ xem. Bốn câu trong phước thứ nhất này đều bao gồm ý nghĩa của ngũ thường. Đây là nền tảng để bước vào Phật Pháp. Cho nên phước trời người được xếp ở trên phước nhị thừa.
Mở đầu phước nhị thừa là thọ trì tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi.
Ngày nay chúng ta thọ tam quy chỉ trên hình thức, không phải thực chất. Thọ giới cũng trên hình thức, vì sao. Vì bên dưới không có gốc.
Nếu nền móng xây vững chắc thì tam quy ngũ giới liền phát sinh tác dụng, có thể thành tựu đức hạnh. Các vị phải biết, Phật pháp là Sư đạo xây dựng trên nền tảng hiếu đạo. Phước thứ nhất là hiếu đạo, phước thứ hai là Sư đạo. Hiếu đạo không có thì Sư đạo cũng không còn.
Ngày nay chúng ta học Phật đặc biệt đề xướng hiếu đạo. Bạn về nhà phải hiếu thuận cha mẹ, trở thành tấm gương cho xã hội đại chúng xem, đó là vì người diễn nói. Cho nên Học vi nhân sư, hành vi thế phạm, bạn phải làm được, chứ không thể chỉ nói ngoài miệng.
Phước nhị thừa tiếp tục nâng cao là Bồ Tát. Bồ Tát có bốn câu đều là cương lĩnh nguyên tắc:
Cương lĩnh thứ nhất: Phát Bồ Đề tâm.
Đại Sư Ngẫu Ích trong Kinh A Di Đà Yếu Giải nói rất hay, chân thật phát tâm cầu sanh Tịnh Độ, quyết không thay đổi, quyết không nghi hoặc, quyết cầu sanh, thì bạn nhất định sanh. Tâm này chính là tâm vô thượng Bồ Đề.
Trong Quán Kinh, Thế Tôn giải thích với chúng ta là tâm chí thành, chân tâm phát nguyện. Một lòng hy vọng cầu sanh Tịnh Độ, đó là thâm tâm, cũng là hồi hướng phát nguyện tâm. Một niệm liền đầy đủ, không có niệm thứ hai. Chúng ta phải phát ra tâm này.
Cương lĩnh thứ hai: Thâm tín nhân quả.
Ngày trước tôi đã từng kể qua với các vị, câu này khiến hai ba năm tâm tôi không được an, vì không hiểu ý. Bình thường chúng ta nói nhân quả báo ứng, thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả, thiện ác nhân quả không lọt mảy trần. Chúng ta biết, tin tưởng, không hoài nghi thì chúng ta thuộc thân phận trời người, nhưng không thể so sánh với hàng nhị thừa.
Chỗ hoài nghi của tôi là tại sao Bồ Tát lại không biết nhân quả này?
Nhân quả này tuyệt đối không phải là nhân quả mà chúng ta nói. Nhân duyên quả báo đó làm gì Bồ Tát không biết. Họ tin sâu nhân quả nhất định phải là nhân quả đặc biệt. Tôi phải mất nhiều năm, cũng gần như được Tam Bảo gia trì mới hiểu ra nhân quả gì. Thì ra là niệm Phật thành Phật.
Chân thật rất nhiều Bồ Tát không biết. Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, không cần ba A Tăng Kỳ kiếp mà chỉ một đời thành tựu. Tận hư không khắp Pháp Giới trong các cõi nước chư Phật, có bao nhiêu Bồ Tát không biết nhân quả này.
Vậy chúng ta quay đầu nhìn lại xem trong hoàn cảnh sống hiện tại, ngay trong đồng tu chúng ta có rất nhiều người học Phật, có tham thiền, có học giáo, trì chú, trì giới, rất nhiều pháp môn, nhưng bạn bảo họ niệm Phật thì họ không tin. Họ học pháp môn của họ rất chuyên cần, dõng mãnh tinh tấn nhưng không chịu niệm Phật.
Cho nên, người phát tâm Bồ Đề, tin sâu nhân quả thật cừ khôi. Nếu họ tương ưng với hai câu trên, thì đúng như pháp môn Tịnh Độ đã nói, thiện căn phước đức nhân duyên ngay trong một đời đầy đủ.
Kinh gọi là chúng sanh căn tánh chín mùi, thành thục. Bồ Tát vô biên thiện căn. Chín mùi thì ngay một đời làm Phật. Ở đời này, mang thân này trong sáu cõi là thân sau cùng, về sau không còn luân hồi nữa. Lần sau trở lại thành Bồ Tát hóa thân, không phải phàm phu. Sự ứng hiện mang tính chất thừa nguyện tái lai, khác nhau hoàn toàn.
Cương lĩnh thứ ba: Đọc tụng Đại Thừa.
Đọc tụng Đại Thừa chính là đọc Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà. Đọc qua một biến, chư Phật Bồ Tát quán đảnh cho bạn một lần. Sau khi đọc, bạn nhất định phải y giáo phụng hành.
Cương lĩnh thứ tư: Khuyến tấn hành giả.
Phải giới thiệu pháp môn Tịnh Độ cho quảng đại quần chúng, cho tất cả chúng sanh, đó là lợi tha. Tự lợi lợi người.
Bạn làm được bốn câu này mới chân thật là Bồ Tát. Khởi tâm động niệm lời nói việc làm phải tương ưng với tam phước. Đó là thường tập tương ưng chi hạnh, có nghĩa chân thật tu Tịnh Độ.
Đồng tu cộng tu với nhau nhất định phải tu sáu hòa kính.
Một, Kiến hòa đồng giải.
Phải hòa thuận, tôn trọng lẫn nhau. Xem tất cả đại chúng thành chư Phật Như Lai, thành hóa thân của Phật A Di Đà. Dùng tâm cung kính nhất để đối nhân xử thế tiếp vật.
Người khác dùng tâm trạng nào để đối xử với chúng ta, chúng ta cũng không quan tâm chú ý, mà chỉ quan tâm mình dùng tâm trạng gì để đối với họ. Nhất định dùng tâm Phật đối với người. Mọi người đều là A Di Đà Phật thị hiện cho chúng ta xem, giúp đỡ chúng ta thành tựu.
Mỗi người đều học như vậy thì kiến hòa đồng giải viên mãn, chân thật nhập Phật tri kiến. Phàm phu nhập Phật tri kiến là không thể nghĩ bàn. Đó là đại tâm phàm phu mà Kinh Hoa Nghiêm đã nói.
Ngày nay chúng ta không làm được A La Hán, Bồ tát, nhưng chúng ta phải làm đại tâm phàm phu. Không khó. Đích thực mỗi vị đồng tu đều có thể làm được. Tâm hạnh của chúng ta liền có thể tương ưng với năm khóa mục này.
Hai, Giới hòa đồng tu.
Chữ Giới mang nghĩa rất rộng. Ngày nay chúng ta trì giới, hy vọng nỗ lực triệt để làm được năm giới mười thiện, chưa kể đến Bồ Tát giới, hay Tỳ Kheo giới. Người Xuất Gia nên học Đại Sư Ngẫu Ích, Đại Sư Hoằng Nhất. Các Ngài trì sa di mười giới, năm giới.
Đại Sư Ngẫu Ích sau khi thọ giới thì xả giới, cả đời Ngài chỉ trì giới sa di. Cho nên các vị thấy trong rất nhiều văn tự là Sa di Bồ Tát giới. Ngài không dám xưng Tỳ Kheo. Ngài là Sa di Bồ Tát. Thành Thời là học trò của Ngài.
Thầy đã xưng Sa di thì học trò không dám xưng Sa di, cho nên pháp Sư Thành Thời xưng là Ưu Bà Tắc, mặc dù là người xuất gia. Thật ra, cách xưng đó mới đúng với thân phận của chúng ta ngày nay.
Thân phận của chúng ta là gì?
Xuất gia Ưu Bà Tắc. Còn các vị là tại gia Ưu Bà Tắc. Tôi là Ưu Bà Tắc thị hiện thân tướng xuất gia. Thảy đều trì năm giới mười thiện.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ, năm giới mười thiện có giải thích tỉ mỉ từ phẩm ba mươi ba đến phẩm ba mươi bảy. Đoạn Kinh văn này thuyết minh tường tận năm giới mười thiện. Chúng ta trì năm giới mười thiện thì thanh tịnh, đúng với tên thật, là xuất gia Ưu Bà Tắc.
Đây là trì giới. Ngoài ra, trì giới còn một nghĩa nữa là thủ pháp. Đạo tràng thường đông người, nếu không có quy củ thì nơi đây trở thành một đoàn thể hỗn loạn, không giống đạo tràng.
Những quy củ này cần phải tuân thủ. Bên ngoài xã hội có quốc gia, quốc gia có pháp luật, rất nhiều quy ước, chúng ta cũng phải tuân thủ. Làm một công dân tốt tuân thủ pháp luật, làm một người tu hành giữ pháp, làm một đệ tử Phật giữ pháp.
Ba, Thân hòa đồng trú.
Tương lai sau khi thôn Di Đà khánh thành, rất nhiều đồng tu niệm Phật cùng ở với nhau. Đôi bên cùng chăm sóc, sách tấn lẫn nhau.
Hy vọng hiện tại chúng ta cùng đồng trong thôn Di Đà thì tương lai chúng ta cũng ở chung trong Hải Hội Liên Trì. Như vậy mới chân thật đạt đến mục tiêu. Tôi kiến nghị, mỗi cửa phòng trong thôn Di Đà đều là cửa kính trong suốt.
Người ở đó không thể giải đãi lười biếng. Hoặc chí ít phải làm một cửa sổ bằng kính nhỏ, người ngoài đi tới đi lui có thể nhìn thấy được bên trong. Còn cửa phòng đóng kín thì không thể thanh đạo, người ngoài không biết được họ đang làm gì, giải đãi lười biếng ra sao.
Đồng tu ở thôn Di Đà phải chú ý, thôn Di Đà hoàn toàn trong suốt hóa, tương lai ngay đến thân thể cũng trong suốt, không chút ô nhiễm. Chúng ta phải đạt tiêu chuẩn này. Đây cũng là tác Sư tác phạm. Cho nên phải thủ pháp, đó mới chân thật là ý nghĩa của thân hòa đồng trú.
Bốn, Khẩu hòa vô tranh.
Hy vọng sau khi bước vào thôn Di Đà, cho dù bạn ở một năm, hai năm hoặc cả đời, bạn cũng sẽ không nói câu nào ngoại trừ câu A Di Đà Phật. Bạn nhất định thành Phật, nhất định thượng thượng phẩm vãng sanh.
Vì sao?
Vì không có lời nào đáng nói, nói ra đều thừa. Bạn nói ra lời nói đều là tiếp nối sáu cõi luân hồi, nên bắt đầu từ hôm nay không tiếp nối sáu cõi luân hồi nữa. Không nói chuyện.
Bạn chào hỏi, tôi đều A Di Đà Phật. Bạn nói cái gì, nhiều hay ít thì tôi đều A Di Đà Phật, một câu cũng không cho lọt vào. Làm như vậy tâm bạn mới thanh tịnh, khẩu nghiệp của bạn mới chân thật tiêu được sạch trơn.
Năm, Ý hòa đồng giải.
Cùng ở chung nơi đây nhất định pháp hỷ sung mãn. Bạn nhất định đạt được cảnh giới này. Hai mươi bốn giờ niệm Phật sẽ sanh tâm hoan hỷ, không mệt, không chán. Niệm mệt thì nghỉ một lát.
Khi nghỉ ngơi, tôi khuyên đồng tu không cởi áo tràng. Chúng ta mặc áo tràng niệm Phật, nghỉ ngơi chốc lát vẫn không cởi áo tràng. Điều đó nhắc chúng ta khỏe rồi phải mau vào niệm Phật đường. Tự động tự phát, không cần có người đến gõ cửa.
Mặc dù mỗi đơn vị chúng ta có một trưởng liêu do các vị chọn lựa. Họ có nhiệm vụ cứ thấy thời gian đến mà bạn vẫn lười biếng thì sẽ đến gõ cửa bạn. Niệm Phật đường có pháp sư. Trong các Pháp Sư cũng có một người chuyên phụ trách công việc nhắc nhở, gọi là tuần phang.
Khi bạn niệm Phật bị hôn trầm, ngủ gật trong niệm Phật đường, ngày xưa dùng tuần phang, một cú phang nhẹ lên đầu bạn, làm cho bạn tỉnh lại.
Ở đây không như thiền đường, thiền đường dùng hương bản để đánh. Còn ở đây chúng ta không đánh mà dùng tuần phang hoặc phất trần để nhắc nhở mọi người. Đó là sự hợp tác lẫn nhau nhằm chân thật làm đến được pháp hỷ sung mãn.
Sáu, Lợi hòa đồng huân.
Mười phương cúng dường quy về thường trụ. Thường trụ phụ trách cơm áo, đi đứng cho mọi người. Bạn đến niệm Phật đường này niệm Phật thì không cần mang theo một phân tiền, không cần lo lắng đời sống, chỉ cần chân thật niệm Phật là được.
Tôi nghĩ tin tức này sẽ truyền đến xã hội, mọi người trong xã hội sẽ không làm việc nữa vì mưu sinh rất khổ cực, chỉ đến niệm Phật đường để niệm Phật.
Tương lai niệm Phật đường của chúng ta ắt hẳn đầy ắp người. May mà hoằng nguyện của Cư Sĩ Lý Mộc Nguyên rất lớn, ông dự định xây dựng thôn hai, thôn ba, thôn bốn, thậm chí xây thành thành phố Di Đà, nước Di Đà.
Thật là khó được duyên phận hy hữu như vậy. Chúng ta hoan nghênh xã hội an ổn, khiến mọi người chân thật có nơi nương tựa. Nhưng thôn Di Đà là chỗ nương về chân chính của chúng ta, vô lượng công đức, được chư Phật tán thán. Đó là tương ưng với lục hòa.
Tam học Giới Định Huệ.
Lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và bát nhã.
Phổ Hiền Bồ Tát thập nguyện.
Các vị có thể không nhớ rõ ràng, nhưng đều hiểu ý nghĩa của từng khóa mục, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của chúng ta đều tương ưng với năm khóa mục này. Sau đó phát tâm thanh tịnh, một lòng chuyên niệm, quyết thành thục Bồ Tát, vô biên thiện căn.
Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác.
Pháp Sư Tịnh Không Giảng Giải.
Discussion about this post